Tiến Sĩ Nghiên cứu xây dựng hệ thống thông tin phục vụ du lịch tại Việt Nam

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 14/5/15.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    MỤC LỤC

    LỜI CAM ĐOAN
    MỤC LỤC . 1
    DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 2
    DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ, MÔ HÌNH 3
    MỞ ĐẦU 4

    Chương 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn về hệ thống thông tin phục vụ du lịch

    15
    1.1. Cơ sở lí luận về hệ thống thông tin phục vụ du lịch . 15
    1.2. Cơ sở thực tiễn về hệ thống thông tin phục vụ du lịch . 39
    Tiểu kết . 58

    Chương 2. Thực trạng tổ chức và hoạt động thông tin phục vụ du lịch
    tại Việt Nam


    2.1. Thực trạng tổ chức cơ quan thông tin du lịch .


    60
    2.2. Thực trạng hoạt động thông tin phục vụ du lịch . 65
    2.3. Nhân lực phục vụ hoạt động thông tin du lịch .

    90
    2.4. Cơ sở vật chất kĩ thuật và hạ tầng công nghệ thông tin phục vụ hoạt động
    thông tin du lịch .

    93
    2.5. Các yếu tố tác động đến hoạt động thông tin phục vụ du lịch

    96
    2.6. Đánh giá chung . 104
    Tiểu kết . 111
    Chương 3. Đề xuất mô hình và các giải pháp xây dựng hệ thống thông tin
    phục vụ du lịch tại Việt Nam


    3.1. Đề xuất mô hình hệ thống thông tin phục vụ du lịch . 113
    3.2. Các giải pháp thực thi mô hình hệ thống thông tin phục vụ du lịch . 135
    Tiểu kết 158
    KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ . 160
    DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ 162
    DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 163
    PHỤ LỤC 173 2


    DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


    TT Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ

    1 CBTT Cán bộ thông tin
    2 CNTT Công nghệ thông tin
    3 CQTT
    Cơ quan thông tin
    Bộ phận thông tin

    4 CSDL Cơ sở dữ liệu
    5 DVTT Dịch vụ thông tin
    6 HTTT Hệ thống thông tin
    7 HTTTDL Hệ thống thông tin phục vụ du lịch
    8 HĐTT Hoạt động thông tin
    9 HĐTTDL Hoạt động thông tin du lịch
    10 NDT Người dùng tin
    11 NCT Nhu cầu tin
    12 PL Phụ lục
    13 SPTT Sản phẩm thông tin
    14 SP&DVTT Sản phẩm và dịch vụ thông tin
    15 TTTT Trung tâm thông tin
    16 TTTTDL Trung tâm thông tin du lịch



    3


    DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ, MÔ HÌNH



    Bảng 1 Tổng hợp kết quả điều tra tính kịp thời và thời sự của sản phẩm và dịch
    vụ thông tin du lịch .

    107
    Hình 2.1 Biểu đồ về nhu cầu loại hình tài liệu của các nhóm người dùng tin du lịch 99
    Hình 2.2 Biểu đồ về nhu cầu về nội dung thông tin của người dùng tin du lịch 101
    Hình 2.3 Biểu đồ về nhu cầu sử dụng dịch vụ thông tin mà người dùng tin du
    lịch thường sử dụng

    103

    Hình 2.4 Biểu đồ về sự khác nhau giữa thông tin với thực tế sản phẩm và dịch
    vụ du lịch

    106
    Hình 2.5 Biểu đồ về sự hấp dẫn về hình thức của các sản phẩm thông tin du lịch . 108
    Hình 2.6 Biểu đồ về ý‎ kiến đánh giá mức độ đáp ứng nhu cầu tin của người dùng
    tin du lịch .

    109
    Hình 2.7 Biểu đồ về những khó khăn người dùng tin thường gặp phải khi tìm
    kiếm thông tin

    110
    Hình 3.1 Sơ đồ cấu trúc của hệ thống thông tin phục vụ du lịch . 117
    Hình 3.2 Sơ đồ dòng dữ liệu của hệ thống thông tin phục vụ du lịch . 119
    Hình 3.3 Sơ đồ mô tả cơ chế quản lí, điều hành hệ thống thông tin phục vụ du lịch 123
    Hình 3.4 Sơ đồ về sự chuyển động thông tin trong hệ thống thông tin phục vụ du lịch 128
    Hình 3.5 Mô hình hệ thống thông tin phục vụ du lịch . 134
    Hình 3.6 Sơ đồ hệ thống mạng của hệ thống thông tin phục vụ du lịch . 152

    4


    MỞ ĐẦU
    1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
    Trong vài thập kỉ gần đây, cùng với những thành tựu phát triển kinh tế của đất
    nước, ngành du lịch đã mang lại cho nền kinh tế quốc dân một nguồn thu đáng kể.
    Đảng và Nhà nước ta xác định “Phát triển du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi
    nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, nhằm góp phần thực hiện công
    nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, X cũng chỉ
    rõ “Du lịch là một ngành kinh tế mũi nhọn, xếp thứ hai về doanh thu trong số các
    ngành xuất khẩu của Việt Nam”.
    Để phát triển nhanh, bền vững và thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn
    của quốc gia, ngành du lịch không chỉ tự thân nỗ lực, mà còn phụ thuộc vào nhiều
    yếu tố, trong đó có thông tin và hoạt động thông tin du lịch (HĐTTDL). Có thể
    thấy, thông tin được tổ chức tốt là cơ sở để các nhà quản lí hoạch định chính sách
    phát triển du lịch, để cán bộ du lịch nâng cao kiến thức, trình độ chuyên môn. Ngoài
    ra, thông tin còn góp phần nâng cao nhận thức của người dân địa phương về vai trò
    của du lịch. Đặc biệt, thông tin là chiếc “cầu nối” giữa điểm du lịch với du khách, là
    công cụ tuyên truyền, quảng bá và xúc tiến hữu hiệu làm hài hòa lợi ích giữa doanh
    nghiệp và khách du lịch.
    Hiểu được tầm quan trọng của thông tin, những năm qua, ngành du lịch đã
    dành nguồn kinh phí không nhỏ đầu tư cho hoạt động thông tin (HĐTT) với một
    mạng lưới các cơ quan thông tin (CQTT) rộng khắp trên toàn quốc và phát hành
    nhiều loại sản phẩm thông tin (SPTT) du lịch nhằm giới thiệu đất nước, con người và
    du lịch Việt Nam Các SPTT du lịch này được đưa tới người dùng tin (NDT) qua
    các dịch vụ như cung cấp tài liệu gốc, thông tin du lịch trực tuyến, trao đổi thông tin,
    tư vấn thông tin, phổ biến thông tin và được truyền tải trên nhiều phương tiện
    thông tin khác nhau. Những hoạt động này phần nào đáp ứng được nhu cầu tin (NCT)
    của NDT và các lĩnh vực liên quan. 5


    Bên cạnh những mặt đạt được, HĐTT phục vụ du lịch còn nhiều hạn chế, các
    CQTT hoạt động còn mang tính đơn lẻ, chưa mang tính hệ thống, thiếu sự điều
    hành giám sát của cơ quan quản lí các cấp. Các sản phẩm và dịch vụ thông tin
    (SP&DVTT) du lịch còn trùng lặp, thiếu tính chuyên nghiệp, việc cung cấp thông
    tin nhiều khi chưa kịp thời, chính xác, thậm chí nhiều doanh nghiệp vì mục đích lợi
    nhuận đã đưa ra những thông tin quảng cáo thiếu tính trung thực . Điều này không
    những gây tâm lí không tốt, không thiện cảm cho khách, cho doanh nghiệp du lịch,
    mà còn dẫn đến tình trạng khó quản lí thông tin, hoạch định chính sách phát triển thị
    trường du lịch Việt Nam.
    Nguyên nhân của những hạn chế trên có nhiều, song chủ yếu là do
    HĐTTDL chưa được tổ chức thống nhất từ trung ương đến địa phương. Đến nay
    vẫn chưa có một cơ sở dữ liệu (CSDL) du lịch dùng chung cho toàn ngành, thiếu sự
    phối hợp, trao đổi thông tin giữa các cơ quan quản lí, doanh nghiệp du lịch, người
    làm du lịch, thậm chí cả của những người dân địa phương và du khách dẫn đến
    HĐTTDL đạt hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của ngành
    du lịch Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
    Xuất phát từ thực tiễn trên, việc nghiên cứu xây dựng hệ thống thông tin phục
    vụ du lịch (HTTTDL) đảm bảo sự thống nhất từ trung ương đến địa phương, từ cơ
    quan quản lí các cấp đến từng đơn vị, đảm bảo việc bổ sung, chia sẻ nguồn lực thông
    tin giữa các CQTT trong toàn ngành với mục tiêu cung cấp thông tin đầy đủ, chính
    xác, kịp thời đến NDT du lịch trong và ngoài nước trở nên cần thiết và cấp bách. Vì
    vậy, chúng tôi chọn “Nghiên cứu xây dựng hệ thống thông tin phục vụ du lịch tại
    Việt Nam” làm đề tài luận án tiến sĩ chuyên ngành khoa học thông tin – thư viện.
    2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
    Từ những năm 60 của thế kỉ XX đến nay, trên thế giới cũng như ở Việt Nam
    đã có nhiều công trình, bài viết nghiên cứu về hệ thống, HTTT nói chung, luận giải
    tầm quan trọng của thông tin/SPTT trong hoạt động du lịch. Các nghiên cứu về lĩnh
    vực này có thể chia thành hai nhóm chủ đề chính sau: 6


    2.1. Các nghiên cứu về lí thuyết hệ thống và hệ thống thông tin
    2.1.1. Nghiên cứu về lí thuyết hệ thống
    Nghiên cứu HTTT dựa trên lí thuyết hệ thống là một hướng nghiên cứu
    mang tính khoa học và phù hợp với thực tiễn trong thời đại ngày nay bởi lí thuyết hệ
    thống là một khoa học nghiên cứu các vấn đề chung nhất của hệ thống.
    Lí thuyết hệ thống được sáng lập bởi LV.Bertalanffy (1901-1972, người Áo),
    với tác phẩm Lí thuyết hệ thống tổng quát [78]. Từ góc độ nghiên cứu sinh học, ông
    cho rằng: “Mọi tổ chức hữu cơ đều là những hệ thống được tạo nên từ các tiểu hệ
    thống và ngược lại cũng là một phần của hệ thống lớn hơn”. Trong học thuyết của
    mình, V.Bertalanffy khẳng định “Chỉnh thể bao giờ cũng lớn hơn phép cộng cơ học
    của các yếu tố cấu thành”. Tính cấu thành này dẫn đến việc sản sinh nhiều thuộc
    tính mới chỉ có ở hệ thống do tác động qua lại giữa các phần tử như: tính thích nghi,
    tính trồi, tính nhất thể và quản lí . Đây là công trình có tính chất nền tảng cho sự
    hình thành và phát triển của lí thuyết hệ thống.
    Sau này, dựa trên lí thuyết chung về hệ thống, trong mỗi lĩnh vực cụ thể, mỗi
    nhà khoa học lại đưa ra học thuyết về lí thuyết hệ thống phù hợp nhằm nghiên cứu và
    giải quyết vấn đề theo quan điểm tổng thể như: K.Boulding (Khoa học quản lí);
    Stefford Beer, Norbert Wiener, Ross Ashby (Điều kiển học); Claude Shanon (Lí
    thuyết thông tin); Pincus và Minahan (Công tác xã hội)
    Ở Việt Nam, một số nhà khoa học vận dụng thành công lí thuyết hệ thống như
    GS.Hoàng Tụy đã tiếp cận và áp dụng lí thuyết hệ thống để giải quyết bài toán quản lí
    kinh tế và xã hội [73]; GS.VS Đào Thế Tuấn áp dụng lí thuyết hệ thống trong nghiên
    cứu xã hội học nông thôn [71]; GS.Nguyễn Đình Hòe có cuốn “Tiếp cận hệ thống
    trong nghiên cứu môi trường và phát triển”[34], đã khẳng định: môi trường là một hệ
    thống mở. Với sự xuất hiện của con người, bản chất của hệ thống trở thành hệ thống
    sinh thái nhân văn. Đó là hệ thống đa diện, đa giá trị, mềm và có tính thích ứng.
    Bước sang thế kỉ XXI, lí thuyết hệ thống được nhân loại coi là lí thuyết của tư
    duy và hành động, giúp con người nhận thức đầy đủ hơn và có những ứng xử thông 7


    minh hơn, hài hòa hơn trong môi trường đa dạng của tự nhiên và xã hội. Vì vậy, có
    thể khẳng định lí thuyết hệ thống là kim chỉ nam cho việc xây dựng HTTTDL.
    2.1.2. Nghiên cứu về hệ thống thông tin
    Phương tiện truyền bá đầu tiên cho quá trình xử lí thông tin có chủ đích đối
    với thông tin là HTTT. Trên thế giới, những nghiên cứu lí luận về HTTT bắt đầu
    xuất hiện từ những năm 60 của thế kỉ XX. Tùy theo góc độ nghiên cứu khác nhau,
    các nhà khoa học đưa ra những luận điểm khác nhau về HTTT, song tựu trung lại
    các nghiên cứu mang tính lí luận về HTTT có thể chia thành hai xu hướng:
    Thứ nhất là xu hướng nghiên cứu các vấn đề về lí thuyết và phương pháp xây
    dựng HTTT. Theo xu hướng này phải kể đến các tác phẩm tiêu biểu biểu như
    “Management information systems” của các tác giả J.Obien, Laudon K,
    Radhakrishna,M[89],[92],[97]; “Management information systems: strategy and
    action” của tác giả Charleas Parker [80]; “Principles of information systems
    Management” của Soye Soseph G.Nellis [101]. Bên cạnh đó, còn có công trình đề
    cập lí luận về quản trị HTTT tiêu biểu phải kể đến “Management information
    systems for the information Age” của tác giả S.haag, M.Cummings and J.Dawkins
    [100]; “Introduction to Information Systems” của tác giả J.Obien [88]; “Information
    Systems Development as action reseach–soft Systems methodology and
    structuration theory của tác giả Rose,J [99].
    Xu hướng thứ hai nghiên cứu về HTTT quan tâm nhiều hơn đến các yếu tố kĩ
    thuật, cách sử dụng, phân phối thông tin và sự ảnh hưởng tích cực của CNTT đến hiệu
    quả hoạt động trong các tổ chức và trong xã hội như “An effiiciency – Based
    Management information” của tác giả Mcmahon,w.w [95]; “Interpreting the
    management of Information Systems Security” của tác giả Dhillon,G[81];
    “Managing management Information Systems của tác giả Donnelly Jim [82]. Đặc
    biệt tác phẩm “Information retrieval system: charactericting testing and evaluation”
    của Lancaster [86] đã trình bày xu thế phát triển của HTTT trong HĐTT thư viện, nêu
    các phương pháp đánh giá của HTTT trên cơ sở các tiêu chí về mặt kĩ thuật và kinh tế
    trong quá trình hoạt động của hệ thống. 8


    So với nhiều nước trên thế giới, Việt Nam nghiên cứu về HTTT có phần muộn
    hơn. Năm 1973, công trình nghiên cứu đầu tiên về HTTT trong lĩnh vực thông tin –
    thư viện là luận văn đại học của tác giả Nguyễn Hữu Hùng “Nghiên cứu quá trình tìm
    tin trong các hệ thống thông tin từ chuẩn tự động”, trong đó tác giả đã đề cập đến vấn
    đề bản chất của bài toán thông tin trong hệ thống, quá trình thông tin, tổ chức xử lí,
    biến đổi thông tin và cách tiếp cận để đánh giá hiệu quả, tối ưu hóa hoạt động của
    HTTT tư liệu. Luận văn đã được Hội đồng Trường đề nghị công bố và sau đó được in
    trong cuốn sách “Các hệ thống thông tin tư liệu tự động hóa” [106].
    Về lí luận xây dựng HTTT quản lí có giáo trình “Các hệ thống thông tin quản
    l‎ý” của PGS.TS Đoàn Phan Tân, trong đó tác giả đúc kết lại các kiến thức cơ bản về
    hệ thống, HTTT quản lí dựa trên máy tính, như HTTT xử l‎í tác nghiệp, HTTT hỗ
    trợ quyết định, hệ thông tin điều hành và hệ chuyên gia . kiến thức về CNTT và
    truyền thông, cơ sở công nghệ của các HTTT hiện đại [61] như một gợi ý cho người
    đọc hiểu hơn các vấn đề về HTTT.
    Song song với các công trình nghiên cứu HTTT mang tính lí luận, tại Việt Nam
    còn có nhiều công trình nghiên cứu mang tính thực tiễn về HTTT thuộc các lĩnh vực
    hoạt động trong xã hội. Qua quá trình khảo sát cho thấy một số công trình có hướng
    nghiên cứu gần với hướng nghiên cứu của luận án:
    Luận án “Hoàn thiện HTTT trong quản lí kinh tế” của Đoàn Thị Thu Hà [26].
    Với kiến thức lí luận và thực thực tiễn quản lí kinh doanh tác giả đã phân tích vị trí, vai
    trò của thông tin và những điều kiện cần thiết để hoàn thiện HTTT kinh tế theo cơ chế
    đổi mới phù hợp với từng cấp: cấp nhà nước, cấp xí nghiệp và các cơ quan hữu quan.
    Luận án “Hoàn thiện HTTT phục vụ quản lí kinh tế - xã hội” của Bùi Đức
    Lợi [50]. Với phương pháp tiếp cận hệ thống và quan điểm đổi mới của Đại hội VI,
    VII của Đảng, tác giả đã đưa ra mô hình HTTT kinh tế - xã hội theo định hướng thị
    trường với mạng lưới thu thập và xử lí thông tin gồm 4 cấp: Cơ quan trung ương
    Đảng và nhà nước (cấp 1), cơ quan quản lí cấp tỉnh, thành phố (cấp 2), cơ quan
    quản lí huyện thị (cấp 3), các tổ chức cơ sở (cấp 4).
    Luận án “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của HTTT quản lí
    giáo dục phổ thông” của Vương Thanh Hương [46]. Với cách tiếp cận liên ngành 9


    khoa học thông tin và khoa học giáo dục, tác giả đưa ra 6 biện pháp nâng cao hiệu
    quả hoạt động hệ thống, trong đó nhấn mạnh biện pháp cải tiến cơ chế thu thập và các
    kênh thông tin bằng việc thiết kế công cụ, thống nhất cơ chế thu thập, xử lí và báo
    cáo dữ liệu theo 3 cấp quản lí: Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sở Giáo dục và Đào tạo,
    phòng Giáo dục và Đào tạo, tăng cường phân cấp; hoàn thiện cơ cấu tổ chức của
    HTTT quản lí giáo dục phổ thông; triển khai lựa chọn và phát triển các chỉ số giáo
    dục; tin học hóa hệ thống tổng hợp dữ liệu giáo dục; nâng cao trình độ đội ngũ
    CBTT; và hợp tác liên kết trong phát triển HTTT quản lí giáo dục. Các biện pháp này
    được kiểm nghiệm và được chấp nhận trong bối cảnh phát triển giáo dục, kinh tế - xã
    hội Việt Nam.
    Có thể nhận thấy, HTTT trong luận án của ba tác giả nêu trên mặc dù ở góc
    độ nghiên cứu khác nhau, ở các ngành khác nhau, nhưng có một điểm chung là mô
    hình hệ thống đều thực hiện theo mô hình phân cấp và sự phân cấp này gắn với các
    cấp quản lí nhà nước từ trung ương đến địa phương. Tuy nhiên, các luận án này đều
    chưa làm rõ cơ chế vận hành hệ thống.
    2.2. Công trình nghiên cứu về tổ chức quản lí thông tin và ứng dụng
    công nghệ thông tin trong hoạt động du lịch
    Đầu tiên là công trình nghiên cứu “Information Management in the Travel
    Industry: the Role and Impact of the Internet” của tác giả Haitao Song [85], đã đi
    sâu phân tích lợi ích của Internet trong hoạt động du lịch, những quan điểm khác
    nhau trong việc sử dụng mạng Internet của nhà cung ứng du lịch, của khách du lịch
    trong giao dịch thương mại điện tử như đặt phòng, đặt tour qua mạng . Trên cơ sở
    thực tế, tác giả đưa ra mô hình quản lí thông tin dựa trên trục lõi tri thức và ngành
    IMBOK (Information Management Body of Knowledge) với hai vấn đề tách biệt:
    một là, Internet (công nghệ thông tin) và mặt kia là lợi ích (chiến lược kinh doanh).
    Tuy nhiên, việc tổ chức quản lí thông tin du lịch trên mạng Internet với việc
    ứng dụng công nghệ web không phải lúc nào đạt được tiện ích tối đa, đôi khi nó cũng
    có những bất cập. Từ thực tế, đó luận án “Tourism Information Systems Intergration
    and utilization within the Sematic web” của Brooke Abrahams [79] đã nghiên cứu 10


    vấn đề hội nhập thông tin và những ưu, nhược điểm của công nghệ web, song cũng
    tìm ra nguyên nhân làm cho du khách gặp khó khăn khi tìm kiếm thông tin trực tuyến
    là do sự tích hợp thông tin không đồng nhất giữa các trang web. Để khắc phục tình
    trạng này, tác giả đã đưa ra sơ đồ dòng dữ liệu, và mô hình tích hợp thông tin du lịch
    trong môi trường web dựa trên công nghệ web và các công nghệ có liên quan hỗ trợ
    việc cung cấp thông tin du lịch một cách đầy đủ, chính xác và kịp thời tới NDT.
    Cũng để khắc phục những bất cập trong việc ứng dụng công nghệ web trong
    hoạt động quản lí du lịch, Tổng cục Du lịch Việt Nam triển khai nghiên cứu hai đề
    tài “Nghiên cứu xây dựng hệ thống phương tiện thiết kế tự động trang web trên
    Internet phục vụ quản lí và phát triển du lịch”[13] và đề tài “Xây dựng môi trường
    quản lí hoạt động trên mạng Intranet nhằm hỗ trợ công tác quản lí nhà nước về du
    lịch” do Nguyễn Thanh Châu làm chủ nhiệm [14]. Hai đề tài đã đưa ra giải pháp
    xây dựng hệ thống cung ứng thiết kế tự động trang web và ứng dụng giao dịch, trao
    đổi thông tin trên mạng Internet nhằm hỗ trợ các đơn vị trong ngành có cơ hội, hội
    nhập vào mạng thông tin toàn cầu, xây dựng mạng Internet tại Tổng cục Du lịch,
    phần mềm trao đổi và quản lí thông tin trên mạng intranet, mô hình "Môi trường
    điện tử hoá quản lí” tại Tổng cục Du lịch hoạt động trên nền tảng các chuẩn về
    thông tin, dữ liệu . nhằm hỗ trợ công tác quản lí nhà nước về du lịch.
    Ngoài các công trình nghiên cứu kể trên, còn có một số bài nghiên cứu vai trò
    của web, của Internet đối với sự phát triển của ngành du lịch như: “Tourism and the
    Internet: opportunities for direct marketing” của tác giả Walle H [102], “Destination
    Information Management System for tourist” của Abdulhamid Shafii Muhammad
    [77], "Công nghệ phát triển website cho ngành du lịch" của Thái Hà [28].
    Để phát huy tối đa sức mạnh của CNTT, của mạng Internet phục vụ các hoạt
    động của ngành du lịch, HĐTT nói riêng, Tổng cục Du lịch Việt Nam đã triển khai đề
    tài “Nghiên cứu cơ sở khoa học và giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin trong
    công tác tuyên truyền quảng bá du lịch Việt Nam trước những thách thức khoa học
    công nghệ hiện nay”[2] và đề tài “Nghiên cứu đánh giá thực trạng định hướng xây
    dựng chiến lược phát triển công nghệ thông tin trong ngành du lịch đến năm 2015 11


    tầm nhìn đến năm 2020”[3], do tác giả Lê Tuấn Anh cùng nhóm nghiên cứu đã đánh
    giá thực trạng ứng dụng CNTT tại một số đơn vị tiêu biểu trong ngành. Từ đó, nhóm
    tác giả đã phác thảo các giải pháp đương đầu với thách thức về công nghệ nảy sinh
    trong công tác quản lí nhà nước, điều hành tác nghiệp, công tác tuyên truyền quảng
    bá của ngành du lịch và đưa ra dự thảo “Chiến lược phát triển và ứng dụng CNTT và
    truyền thông trong ngành du lịch đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020” với 4
    nội dung chính: ứng dụng CNTT và truyền thông, xây dựng du lịch điện tử; đẩy
    mạnh phát triển công nghiệp nội dung, chú trọng ứng dụng phần mềm mã nguồn mở;
    phát triển hạ tầng thông tin và truyền thông trong ngành; phát triển nguồn nhân lực
    CNTT và truyền thông trong ngành du lịch.
    Có thể là không đầy đủ, song với những công trình nghiên cứu vừa điểm trên
    đây cho thấy các công trình mới dừng lại ở việc nghiên cứu lí luận về hệ thống,
    HTTT và hoạt động ứng dụng CNTT trong ngành du lịch. Ở Việt Nam, đến nay, chưa
    có công trình nào đề cập đến việc xây dựng HTTTDL một cách tổng thể.
    Đề tài luận án “Xây dựng hệ thống thông tin phục vụ du lịch tại Việt Nam”
    là hoàn toàn mới. Luận án kế thừa kết quả nghiên cứu của công trình đi trước để lựa
    chọn phương pháp nghiên cứu, cơ sở lí luận, tham khảo những kinh nghiệm để xây
    dựng HTTTDLViệt Nam theo hướng hoàn thiện, nhằm tập hợp được nguồn lực
    thông tin trong toàn ngành, đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ từ trung ương đến địa
    phương, đáp ứng được NCT của NDT du lịch trong và ngoài nước.
    3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
    3.1 Mục tiêu nghiên cứu
    Đưa ra luận chứng cơ sở khoa học về lí luận và thực tiễn của HTTTDL, đề
    xuất mô hình và các giải pháp xây dựng HTTTDL tại Việt Nam.
    3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
    Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu nêu trên, luận án có 3 nhiệm vụ chính:
    Hệ thống hoá chọn lọc (có sự phát triển) làm rõ cơ sở lí luận và thực tiễn về
    HTTTDL 12


    Phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức và HĐTTDL tại Việt Nam;
    Đề xuất mô hình và các giải pháp xây dựng HTTTDL tại Việt Nam.
    4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
    4.1. Đối tượng nghiên cứu
    Hệ thống thông tin phục vụ du lịch tại Việt Nam.
    4.2. Phạm vi nghiên cứu
    - Về nội dung: Nghiên cứu lí luận và thực tiễn về HTTTDL từ đó đề xuất mô
    hình và các giải pháp xây dựng HTTTDL ở Việt Nam.
    - Về không gian: Luận án sử dụng số liệu ở Tổng cục Du lịch, một số Sở Văn
    hóa, Thể thao và Du lịch, cơ sở đào tạo du lịch, một số doanh nghiệp du lịch Việt
    Nam; đồng thời sử dụng số liệu thống kê của một số quốc gia tiêu biểu đã thành
    công trong xây dựng HTTTDL.
    - Về thời gian: Luận án sử dụng số liệu từ năm 2001 đến nay để phân tích,
    đánh giá thực trạng và rút ra kết luận, đề xuất các giải pháp chủ yếu đến năm 2020
    và xác định định hướng đến năm 2030.
    5. Phương pháp nghiên cứu
    5.1. Phương pháp luận
    Luận án sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, và vận
    dụng lí thuyết hệ thống để nghiên cứu, giải quyết các vấn đề đặt ra.
    5.2. Phương pháp nghiên cứu
    - Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu, số liệu: tìm hiểu, tiếp cận và
    kế thừa các kiến thức mang tính lí luận, các công trình nghiên cứu có liên quan đến
    lĩnh vực thông tin, HTTT, hoạt động du lịch . chủ trương đường lối của Đảng, của
    nhà nước, của ngành về HĐTT, hoạt động du lịch.
    - Phương pháp phỏng vấn: hỏi và trưng cầu ý kiến trực tiếp một số nhà quản
    lí, CBTT trong ngành du lịch để tìm hiểu và làm rõ thực trạng HĐTTDL những mặt
    đã đạt được, những mặt hạn chế và hướng giải quyết. 13


    - Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: phục vụ việc khảo sát, đánh giá thực
    trạng tổ chức và HĐTTDL thông qua hai mẫu phiếu:
    Mẫu phiếu khảo sát HĐTT tại các đơn vị trong ngành du lịch dùng để khảo
    sát trình độ của CBTT trong ngành du lịch, hiện trạng cơ sở vật chất, trang thiết bị
    phục vụ HĐTT cũng như công tác tổ chức HĐTT tại các đơn vị; tìm hiểu
    SP&DVTT du lịch hiện có, sự phối hợp trong việc xây dựng và chia sẻ nguồn lực
    thông tin giữa các CQTT trong ngành.
    Mẫu phiếu điều tra nhu cầu thông tin dùng để khảo sát NCT, thói quen sử
    dụng SP&DVTT của NDT du lịch; tìm hiểu những bất cập NDT thường gặp trong
    việc tìm kiếm thông tin du lịch; ý kiến phản hồi, đánh giá chất lượng SP&DVTT do
    các đơn vị trong ngành du lịch cung cấp.
    Phương pháp thống kê: dùng để xử lí số liệu khảo sát thực trạng HĐTTDL
    Việt Nam; sử dụng các biểu mẫu thống kê để minh họa cho các vấn đề nghiên cứu.
    6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án
    6.1. Ý nghĩa lí luận
    Luận án là công trình tổng quan cơ sở lí luận về HTTTDL bao gồm khái
    niệm, yếu tố cấu thành, yếu tố môi trường tác động đến hệ thống; các quan điểm,
    nguyên tắc, phương pháp, yêu cầu xây dựng HTTTDL và tiêu chí đánh giá hiệu quả
    hoạt động của HTTTDL.
    6.2. Ý nghĩa thực tiễn
    Luận án đi sâu tìm hiểu, đánh giá thực trạng tổ chức và HĐTTDL và đi đến
    nhận định hiện nay ngành du lịch Việt Nam mới có HĐTTDL chưa có HTTTDL.
    Luận án đề xuất được mô hình của HTTTDL tại Việt Nam, cùng bảy giải
    pháp thực thi mô hình nhằm khắc phục những tồn tại của HĐTTDL trong nhiều
    năm qua, với mục tiêu đáp ứng NCT của NDT du lịch trong và ngoài nước, góp
    phần thúc đẩy ngành du lịch Việt Nam phát triển bền vững. 14


    7. Bố cục của luận án
    Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo và
    phụ lục, phần chính luận án gồm 3 chương:
    Chương 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn về hệ thống thông tin phục vụ du lịch
    Chương 2.Thực trạng tổ chức và hoạt động thông tin du lịch tại Việt Nam
    Chương 3. Các giải pháp xây dựng hệ thống thông tin phục vụ du lịch
    tại Việt Nam
     
Đang tải...