Báo Cáo Nghiên cứu về tình hình xuất nhập khẩu của việt nam giai đoạn 2001-2007

Thảo luận trong 'Chưa Phân Loại' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    NGHIÊN CỨU VỀ TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU
    CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001-2007

    A RESEARCH ON THE IMPORT-EXPORT BUSINESS OF VIETNAM IN THE
    STAGE OF 2001-2007

    SVTH: PHẠM THẾ VŨ
    Lớp 06CNQT01, khoa Quốc tế học, trường Đại học Ngoại ngữ
    GVHD: THS. DưƠNG THỊ HẰNG
    Khoa Quốc tế học, trường Đại học Ngoại ngữ, ĐHĐN

    TÓM TẮT
    Xuất nhập khẩu là một ngành kinh tế quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của
    công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam. Tuy nhiên, những thông tin về hoạt
    động xuất nhập khẩu của Việt Nam được công bố vẫn còn rời rạc, thiếu chi tiết, thiếu cập
    nhật. Bài báo sẽ cố gắng giải quyết những vấn đề trên bằng cách: khái quát tương đối họat
    động xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001 – 2007 một cách cập nhật và đầy đủ nhất.
    SUMMARY
    Import-export business is an important and determining factor in the success of the
    industrialization and modernization of the whole country. However, the information made public
    on this field is still desultory, insufficient and out-of-date. The article is in an effort to solve the
    above matter by providing an updated and detailed description of the import-export business of
    Viet Nam in the stage of 2001 – 2007.

    1. Mở đầu
    Mục đích của nghiên cứu là: hệ thống hóa các vấn đề chung về xuất nhập khẩu, trình
    bày tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001-2007 một cách cập nhật và đầy đủ
    nhất có thể.
    Phạm vi nghiên cứu là lĩnh vực xuất nhập khẩu hàng hóa, không đề cập đến lĩnh vực
    xuất nhập khẩu dịch vụ. Trong xuất nhập khẩu hàng hóa, nghiên cứu cũng chỉ đi sâu vào phân
    tích một số vấn đề chủ yếu: tốc độ tăng trưởng và qui mô xuất nhập khẩu, cơ cấu mặt hàng
    xuất nhập khẩu, cơ cấu thị trường xuất nhập khẩu, các thành phần kinh tế tham gia vào lĩnh
    vực xuất nhập khẩu, các điều kiện ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu.
    Phương pháp chủ yếu được sử dụng là phương pháp phân tích, thống kê.
    Nghiên cứu sử dụng rất nhiều số liệu từ các nguồn khác nhau. Các số liệu dùng để
    phân tích tình hình xuất nhập khẩu được tổng hợp từ nguồn đã được Tổng cục thống kê, Bộ
    Công thương, Bộ Ngoại giao công bố. Các số liệu phục vụ cho các lập luận được tổng hợp từ
    những tài liệu trong danh mục tài liệu tham khảo, các trang web chính thức của WTO, IMF.
    Trong phạm vi cho phép hạn hẹp, bài báo này chỉ có thể nêu lên các vấn đề được
    nghiên cứu; những kết quả khái quát nhất từ việc phân tích, thống kê số liệu; hạn chế tối đa số
    lượng các bảng, biểu đồ.
    2. Nội dung
    2.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn
    2001-2007

    2.1.1. Nhân tố khách quan:
    Những biến động kinh tế, chính trị trên thế giới, Trung Quốc gia nhập WTO
    2.1.2. Nhân tố chủ quan:
    Việt Nam gia nhập WTO, các Hiệp định Thương mại, kết quả họat động xuất nhập
    khẩu giai đoạn 1986-2000, định hướng chiến lược phát triển Ngoại thương Việt Nam, mục tiêu
    chung của xuất khẩu Việt Nam thời kì 2006-2010
    2.2. Tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001 – 2007
    2.2.1. Giá trị và tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu

    Trong giai đoạn này, tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu không ổn định. Năm 2001,
    tăng trưởng xuất nhập khẩu chỉ đạt 3,7% do tình tình kinh tế - chính trị thế giới biến động. Chỉ
    số này đã được cải thiện vào năm 2002, và bứt phá trong hai năm 2004-2005. Sau khi suy
    giảm nhẹ vào năm 2005, tốc độ tăng trưởng tiếp tục giữ ở mức cao, đặc biệt năm 2007 là
    28,9%, cao nhất trong 7 năm của giai đoạn 2001–2007. Tốc độ tăng trưởng trung bình hàng
    năm là 20,5%.
    Năm 2007, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 109.217 triệu USD, gấp 3,5 lần so với
    31.247 triệu USD của năm 2001
    2.2.2. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu:
    a. Nhóm hàng khoáng sản, nhiên liệu:
    Năm 2007 chỉ riêng hai mặt hàng dầu thô và than đá đã chiếm gần 20% tổng kim
    ngạch xuất khẩu cả nước. Sản lượng xuất khẩu dầu thô và than đá tăng trưởng không ổn định.
    Khối lượng xuất khẩu dầu thô chỉ tăng nhẹ trong những năm đầu của giai đoạn 2001-2007 rồi
    giảm dần. Sở dĩ có sự sụt giảm này là do các mỏ dầu cũ dần cạn kiệt trong khi công tác thăm
    dò và mua lại mỏ dầu mới của các nước khác không đạt nhiều tiến triển.
    Để tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường, trong những năm tới kim ngạch xuất
    khẩu các mặt hàng này sẽ giảm dần. Trong đề án xuất khẩu 2006-2010, Bộ thương mại đã điều
    chỉnh mục tiêu xuất khẩu khoáng sản, nhiên liệu xuống còn 9,6% vào năm 2010, trong đó giá
    trị xuất khẩu dầu thô còn 6,1 tỷ USD và than đá còn 325 triệu USD.
    b. Nhóm hàng nông lâm thủy sản
    Trong vòng 7 năm 2001-2007, giá trị xuất khẩu các mặt hàng này đã tăng lên gần gấp 3
    lần. Đây là những mặt hàng chịu nhiều tác động của thị trường thế giới. Trong những năm
    2001-2003, do ảnh hưởng của kinh tế thế giới suy giảm, nhu cầu về nông sản, thủy sản giảm
    làm giảm giá hàng loạt mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu tăng
    rất chậm trong giai đoạn này. Những năm còn lại của giai đoạn 2001-2007, do tình hình kinh
    tế thế giới phục hồi và chi phí sản xuất gia tăng; giá trị xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đã tăng
    nhanh.
    Trong năm 2007, khối lượng xuất khẩu các mặt hàng nông sản có phần giảm hoặc tăng
    không nhiều. Tuy nhiên, giá trị xuất khẩu lại tăng rất cao so với năm 2006. Nguyên nhân là giá
    nông sản thế giới đang trên đà lên giá. Đầu năm 2008, thế giới đối mặt với cuộc khủng hoảng
    lương thực khi giá hầu hết các nông sản chính như: bắp, lúa mì, gạo đều tăng gấp 2-3 lần trong
    vòng chưa đầy hai năm.
    *Tóm lại, do đã có quá trình phát triển lâu dài, đã khai thác phần lớn tiềm năng nên hoạt động
    xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của Việt Nam những năm qua có xu hướng tăng trưởng chậm
    lại về khối lượng, nhưng vẫn gia tăng nhanh về giá trị do giá cả thế giới có xu hướng tăng lên.
    Việc gia nhập WTO đã đặt ngành xuất khẩu nông, lâm, thủy sản trước những thời cơ
    và thách thức mới.
    Để các mặt hàng này thực sự trở thành thế mạnh của xuất khẩu Việt Nam, về lâu dài
    cần phát triển theo hướng: nâng cao dần chất lượng sản phẩm, gia tăng hàm lượng chế biến,
    đẩy mạnh hoạt động xây dựng và quảng bá thương hiệu, phát triển hạ tầng pháp lý.
    c. Nhóm hàng chế biến:
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...