Tiến Sĩ Nghiên cứu ứng dụng Siêu âm doppler động mạch rốn, động mạch não và trắc đồ lý sinh cải biên để dự b

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Nhu Ely, 16/1/14.

  1. Nhu Ely

    Nhu Ely New Member

    Bài viết:
    1,771
    Được thích:
    1
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    LUẬN ÁN CHUYÊN KHOA CẤP II Y HỌC
    NĂM 2012


    ĐẶT VẤN ĐỀ

    TSG chiếm khoảng 5- 15% của thai kỳ và là nguyên nhân gây tăng tỷ lệ bệnh suất và tử suất cho mẹ, thai và sơ sinh. Nguyên nhân sinh bệnh của TSG còn chưa biết rõ. Cho đến hiện nay, sự thành công trong điều trị vẫn còn là thử thách đối với các nhà sản khoa.
    TSG càng khởi đầu sớm thì thường phối hợp với tình trạng thai kém phát triển là do sự bất thường ở trong bánh rau dẫn đến giảm lưu thông tuần hoàn thai, và nhồi máu rau dưỡngdẫn đến tình trạng thai kém được nuôi. Tỷ lệ TCPT chiếm khoảng 50% trong những trường hợp TSG nặng.
    TSG khởi đầu muộn được đặc trưng bởi sự không thích ứng của bánh rau. Vì vậy, trong những trường hợp này, thai phát triển bình thường hoặc thai to có thể quan sát thấy.
    Thai nhi phụ thuộc vào rau thai để sống sót. Rau thai đóng vai trò chủ yếu trong bệnh lý TSG. Siêu âm có nhiều lợi ích trong khảo sát hình thái học của bánh rau ở thai phụ tiền sản giật. Dường như hình thái học của bánh rau thay đổi tương tự như trong những trường hợp huyết áp bình thường có biến chứng thai chậm phát triển. Không có sự tương quan giữa biến chứng của TSG nặng với siêu âm hình thái học của bánh rau.
    Tần số của thiểu ối chiếm khoảng 10 và 30% của cao huyết áp và thai nghén. Trong TSG nặng nếu AFI < 2cm thì có chỉ định chấm dứt thai kỳ . Chấm dứt thai kỳ là cách chữa tuyệt đối đối với điều trị TSG nhưng không tối ưu cho sự trưởng thành của thai trước 34 tuần. Để tránh sự can thiệp sớm không thích ứng, người thầy thuốc lâm sàng cần tiến hành đánh giá đúng tình trạng của thai
    Hiện nay, siêu âm đóng một vai trò chủ yếu trong theo dõi thai. Thăm khám bằng siêu âm và doppler có khả năng đánh giá những thông số và xu hướng phát triển của thai, thể tích nước ối, hình thái học của thai, chỉ số lý sinh của thai và tuần hoàn thai. Sự thay đổi của một trong những thông số này đóng vai trò quan trọng trong sự quyết định chấm dứt thai kỳ.
    Trong thập kỷ qua, vai trò của siêu âm doppler trở nên quan trọng không thể chối cãi trong đánh giá tình trạng của bào thai, mặc dầu vậy báo cáo của National High Blood pressure Education Program Working Group trên huyết áp cao trong thai kỳ đã thiếu sự chú ý về Doppler trong thai kỳ. Theo Lindheidmer và Sibais, điều này có thể được giải thích bởi sự thiếu những hướng dẫn cụ thể khi sử dụng và hiệu quả của sự nghèo nàn thông tin do xét nghiệm này rất đắt đỏ.
    Nhiều nghiên cứu hỗ trợ cho tầm quan trọng của siêu âm doppler trong thai phụ cao huyết áp. Cameron và cộng sự trong báo cáo đầu tiên đã chỉ ra rằng: có thể chỉ định siêu âm doppler ở thai yếu trước khi làm NST và BPP trong các trường hợp THA nặng trong thai kỳ. Yoon và cộng sự đã tìm thấy sự bất thường trong các dạng sóng của doppler động mạch rốn đã trở nên dấu hiệu dự báo trước kết quả bất lợi trong kết quả chu sinh ở thai phụ TSG.
    Trắc nghiệm lý sinh BPP là một phương pháp lâm sàng hữu ích để đánh giá tình trạng của bào thai. Trắc nghiệm này không tương thích để tìm tần số của tim thai, mà sử dụng siêu âm để đánh giá thể tích của nước ối và quan sát hô hấp của thai, hoạt động của cơ thể và phản xạ của bào thai. Tuy nhiên, để thực hiện trắc nghiệm lý sinh đòi hỏi phải có thời gian và người thực hiện phải có kinh nghiệm. Trắc nghiệm lý sinh cải tiến (MBPP) dự báo nguy cơ xấu về thai như là một CST âm tính. Với thời gian thực hiện ngắn hơn, Test dựa vào NST và chỉ số nước ối (AFI). NST là một chỉ điểm về tình trạng hiện tại của thai, AFI là một chỉ điểm lâu dài về tình trạng thai. NST âm tính, hoặc AFI<50 được coi là bất thường cần phải được thực hiện đầy đủ BPP.
    Nhiều nghiên cứu trong nước và ở những trung tâm y khoa khác nhau trên thế giới về siêu âm doppler động mạch rốn, động mạch não, trắc đồ sinh vật lý hay trắc đồ sinh vật lý cải biên cho thấy khả năng tiên đoán về tình trạng thai suy ở thai phụ tiền sản giật góp phần giúp ích cho quyết định lâm sàng nhằm giảm tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong ở mẹ, thai, và sơ sinh [3], [4],[15],[18],[26].
    Chúng tôi thực hiện đề tài: “ Nghiên cứu ứng dụng Siêu âm doppler động mạch rốn, động mạch não và trắc đồ lý sinh cải biên để dự báo thai suy ở thai phụ tiền sản giật” với 2 mục tiêu:
    1. Khảo sát kiểu hình và chỉ số trở kháng (RI) của doppler động mạch rốn, động mạch não và trắc đồ sinh vật lý cải biên ở thai phụ tiền sản giật.
    2. Đánh giá mối liên quan giữa tình trạng mẹ, thai,và sơ sinh với kết quả siêu âm doppler động mạch rốn , động mạch não và trắc đồ sinh vật lý cải biên.
     
Đang tải...