Luận Văn Nghiên cứu triển khai áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2000 tại Công ty Đầu tư Xây dựng

Thảo luận trong 'Quản Trị Kinh Doanh' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Nghiên cứu triển khai áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2000 tại Công ty Đầu tư Xây dựng số 2 Hà Nội(79 trang)

    LỜI NÓI ĐẦU

    Vấn đề chất lượng và quản lý chất lượng đã trở thành một nhân tố chủ yếu trong chính sách kinh tế của nhiều quốc gia.

    Gần đây, do khoa học kỹ thuật phát triển vì vậy mà chu trình sản xuất đã được rút ngắn, chất lượng sản phẩm được nâng cao, mặt khác thu nhập quốc dân ngày càng tăng kéo theo nhu cầu của người tiêu dùng luôn luôn thay đổi, họ đòi hỏi hàng hoá phải có chất lượng phù hợp. Chính vì vậy mà cuộc cạnh tranh về chất lượng sẽ thay thế cuộc cạnh tranh giá cả. Xu hướng này diễn ra ở tất cả các nước trên thế giới và không ngoại trừ các doanh nghiệp ở Việt nam.

    Công ty Đầu tư Xây dựng số 2 Hà Nội (HACINCO N02) là một Công ty đầu tư xây dựng hoạt động trong cơ chế thị trường tự do cạnh tranh. Để tồn tại và phát triển tất yếu phải cạnh tranh. Nhận thức được vấn đề đó ban lãnh đạo Công ty đã và đang nghiên cứu triển khai áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2000 nhằm mục đích nâng cao chất lượng công trình, vị thế của doanh nghiệp trên thị trường, hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty, đồng thời góp phần vào sự phát triển của đất nước.

    Xuất phát từ lợi ích của việc áp dụng bộ ISO và yêu cầu thực tế của Công ty,và qua sự hướng dẫn của thầy giáo Nguyễn Việt Hưng tôi đã chọn đề tài “Nghiên cứu triển khai áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2000 tại Công ty Đầu tư Xây dựng số 2 Hà Nội”. Hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty bao gồm nhiều mặt như: tài chính, chất lượng và quản lý chất lượng, nhân sự, kỹ thuật, đầu tư nhưng trong luận văn này chỉ chú trọng nghiên cứu mảng chất lượng và quản lý chất lượng của Công ty. Ở đây vấn đề được đặt ra và xem xét quá trình sản xuất kinh doanh của Công ty trong thời kỳ 5 năm trở lại đây (kể từ năm 1998-2002).

    Trong luận văn đã sử dụng một số phương pháp phân tích thống kê mô tả,phương pháp duy vật biện chứng, phân tích định tính, định lượng, sử dụng các bảng biểu, sơ đồ và biểu đồ thông qua phân tích các tài liệu thực tế của Công ty, đồng thời kết hợp với phương pháp quan sát trực quan để thu thập dữ liệu, để phân tích tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình quản trị chất lượng của Công ty HACINCO. Qua đây, tôi xin mạnh dạn đưa ra một số ý kiến nhằm mục đích góp phần nhỏ bé vào sự phát triển của Công ty.

    Qua cuốn luận văn này tôi mong rằng có thể tìm ra được vấn đề vướng mắc trong việc nghiên cứu triển khai áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2000 của Công ty. Đồng thời tìm cách giải quyết các vướng mắc đó một cách hiệu quả nhất. Qua đây tôi chú trọng nhấn mạnh tới yếu tố con người, đây được coi là yếu tố tác động mạnh nhất tới chất lượng trong ngành xây dựng.

    Tuy nhiên, đây là lần đầu tiên được tiếp cận với thực tế và đem lý thuyết ứng dụng vào mục đích nghiên cứu của mình, luận văn này không thể tránh khỏi một số sai sót. Vì vậy, tôi rất mong nhận được ý kiến phê bình và đóng góp của thầy cô và các bạn. Qua đây tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của thầy giáo Nguyễn Việt Hưng cùng các nhân viên của Công ty Đầu tư Xây dựng số 2 Hà Nội.

    Kết cấu của đề tài ngoài phần mở đầu và kết luận gồm 3 phần:

    Chương I: Một số vấn đề cơ bản về chất lượng và quản lý chất lượng

    Chương II: Thực trạng công tác quản lý chất lượng tại Công ty Đầu tư Xây dựng số 2 Hà Nội

    Chương III: Các giải pháp chủ yếu để xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2000 tại Công ty Đầu tư Xây dựng số 2 Hà Nội






    CHƯƠNG I

    MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG VÀ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG


    Chương này đề cập đến một số vấn đề cơ bản về chất lượng và quản lý chất lượng, bao gồm các vấn đề về chất lượng, quản lý chất lượng và hệ thống chất lượng. Đây là cơ sở lý luận chung cho việc nghiên cứu và phân tích ở các chương tiếp theo. Nội dung chương này được trình bày theo logic: Đưa ra vấn đề về chất lượng chung qua đó phân tích vấn đề chất lượng trong ngành xây dựng để từ đó thấy được đặc thù trong ngành xây dựng. Mọi nội dung của quản lý chất lượng được tập trung chủ yếu trong lĩnh vực xây dựng, từ các chức năng của quản lý chất lượng đến nội dung của quản lý chất lượng đều chỉ chú trọng đến chất lượng trong doanh nghiệp xây dựng.

    Hệ thống quản lý chất lượng được đưa ra trên cơ sở phân tích khái niệm và yêu cầu, đồng thời giới thiệu cơ bản về hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2000, đây là hệ thống quản lý chất lượng mà lãnh đạo Công ty Đầu tư Xây dựng số 2 Hà Nội quyết định triển khai thực hiện. Mặt khác để thuận tiện cho việc theo dõi các chương sau, chương này có trình bày một số nguyên tắc thiết kế hệ thống và các bước của việc thiết kế hệ thống quản lý chất lượng theo TCVN 9001:2000 trong ngành xây dựng.

    I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG.

    1. Chất lượng và khái niệm về chất lượng

    “Chất lượng” là một danh từ được thường xuyên nhắc đến trong đời sống và trong kinh doanh. Nhưng thực chất chất lượng là gì được rất nhiều tổ chức quan niệm khác nhau.

    Hiện nay, với các cách tiếp cận khác nhau đã đưa ra khái niệm khác nhau về chất lượng sản phẩm. Mỗi khái niệm đều có những căn cứ khoa học và thực tiễn khác nhau nhưng đều có những đóng góp nhất định thúc đẩy khoa học quản lý chất lượng không ngừng phát triển và hoàn thiện.

    Chất lượng của sản phẩm hàng hoá chỉ thấy được thông qua quá trình sử dụng và ở trong những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể. Trong những điều kiện và hoàn cảnh khác nhau thì việc đánh gía chất lượng sản phẩm đó cũng khác nhau. Để thấy được điều đó ta có thể tham khảo một số quan niệm khác nhau của một số chuyên gia hàng đầu về chất lượng như sau:

    Theo A.G.Robertson – nhà quản lý người Anh nêu lên khái niệm: “quản lý chất lượng sản phẩm là ứng dụng các biện pháp, thủ tục, kiến thức khoa học kỹ thuật đảm bảo cho các sản phẩm đang hoặc sẽ sản xuất phù hợp với thiết kế, với yêu cầu trong hợp đồng kinh tế bằng con đường hiệu quả nhất, kinh tế nhất”.

    Theo A.Feigenbaum – giáo sư người Mỹ lại cho rằng: “quản lý chất lượng sản phẩm đó là một hệ thống hoạt động thống nhất có hiệu quả nhất của những bộ phận khác nhau trong một đơn vị kinh tế, chịu trách nhiệm triển khai các thông số chất lượng, duy trì mức chất lượng đã đạt được và nâng cao nó để đảm bảo sản xuất một cách kinh tế nhất, thỏa mãn nhu cầu thị trường”.

    Theo K.Ishikawa – giáo sư người Nhật cho rằng: “quản lý chất lượng sản phẩm có nghĩa là nghiên cứu - thiết kế – triển khai sản xuất và bảo dưỡng một sản phẩm có chất lượng, sản phẩm phải kinh tế nhất, có ích nhất và bao giờ cũng thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng”.

    Một khái niệm được coi là đầy đủ và được chấp nhận nhiều hơn cả là khái niệm của tổ chức tiêu chuẩn quốc tế (ISO):

    “Chất lượng là một tập hợp những tính chất và những đặc trưng của sản phẩm và dịch vụ có khả năng thoả mãn nhu cầu đã nêu ra hoặc nhu cầu tiềm ẩn của khách hàng”

    Theo quan điểm của ISO, họ nhấn mạnh đến việc thỏa mãn nhu cầu. Theo quan điểm này thì không những chỉ quan tâm đến nhu cầu bộc lộ mà mặt khác họ còn quan tâm đáp ứng nhu cầu tiềm ẩn của khách hàng. Xác định được nhu cầu tiềm ẩn của khách hàng và đáp ứng được những nhu cầu đó sẽ tạo ra sự thu hút và làm thỏa mãn vượt quá mong đợi của khách hàng, từ đó tạo ra được lợi thế trong kinh doanh.

    2. Đặc điểm của sản phẩm xây dựng và chất lượng của sản phẩm xây dựng.

    2.1. Đặc điểm sản phẩm xây dựng.

    Ngành xây dựng là một ngành kinh tế kỹ thuật có nhiều đặc thù riêng. Vì vậy, ngoài những đặc điểm của sản phẩm thông thường, sản phẩm của ngành xây dựng còn mang những đặc tính riêng biệt của ngành. Nó có tính tổng hợp, tính cố định, tính đơn nhất, tính phức hợp, tính dự kiến, tính phức tạp .

    - Tính tổng hợp: Công trình là một chỉnh thể gồm các chuyên ngành khác nhau, phương pháp thi công khác nhau. Không nhất thiết phải cùng sản xuất theo một phương pháp nhất định cũng giống như sản xuất trên một dây chuyền nhất định. Trong xây dựng, có thể có nhiều phương pháp sản xuất ra cùng một sản phẩm. Mặt khác công trình xây dựng đòi hỏi phải tổng hợp nhiều biện pháp cách thức khác nhau để tạo ra một sản phẩm.

    - Tính cố định: Sản phẩm của xây dựng mang tính cố định. Đây là đặc điểm riêng nhất của sản phẩm xây dựng. Một công trình xây dựng kể từ khi đang là trong kế hoạch đã được xác định vị trí. Vị trí được xác định là cố định kể từ khi thi công đến khi sử dụng. Sản phẩm chỉ mất tính cố định khi sản phẩm không còn giá trị sử dụng.

    - Tính đơn nhất: Việc thiết kế và xây dựng công trình có tính đơn chiếc, chỉ thiết kế phù hợp kiểu dáng và kích thước như thế cho một công trình mà khi đem sang áp dụng cho công trình khác thì khó phù hợp hoặc không phù hợp. Mặt khác, thêm với việc thiết kế như thế nào thì bắt buộc thi công như vậy nhưng khi thiết kế khác hoặc sang điều kiện chỗ khác thì lại phải thi công theo cách khác. Và cụ thể nhất trong đặc điểm này là không thể sản xuất một số sản phẩm xây dựng theo dây chuyền.

    - Tính phức hợp: Công trình gồm nhiều bộ phận riêng lẻ tạo thành, gồm nhiều hạng mục công trình ghép nối lại mà trong đó không thể thiếu được hạng mục nào. Hạng mục nào cũng đều cần thiết cho công trình, nếu bỏ đi một hạng mục thì công trình sẽ bị lỗi mà ở đây có thể là đổ, sập hay lún . Mức độ lắp ghép tương đối cao, như: chế tạo ở nhà máy, chế tạo ở công trường, lắp đặt tại công trường với nhiều loại hình tổ hợp.

    - Tính dự kiến: Công trình khi xây dựng đầu tiên cần dự kiến trước, phải tiến hành phân tích khả thi, chọn địa điểm công trình để tiến hành khảo sát, thiết kế, thi công. Tính phức tạp là chỉ cùng với sự phát triển của ngành xây dựng, mức độ kỹ thuật xây dựng công trình cũng từng bước được nâng cao.

    2.2. Ảnh hưởng của chất lượng chung.

    Chất lượng sản phẩm hàng hoá bị tác động bởi một số các yếu tố. Các yếu tố này có thể ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến chất lượng của sản phẩm. Một sản phẩm có chất lượng là những sản phẩm khắc phục một cách tốt nhất các ảnh hưởng đó.

    - Yếu tố về thị trường: Đặc điểm của nhu cầu là luôn thay đổi, vận động theo xu hướng đi lên, vì vậy chất lượng sản phẩm hàng hoá dịch vụ cũng phụ thuộc vào đó. Thị trường sẽ quyết định mức chất lượng sản phẩm hàng hoá dịch vụ của các doanh nghiệp cung cấp. Bên cạnh đó, thị trường cũng giúp các doanh nghiệp hiểu rõ hơn, nắm vững hơn các nhu cầu đòi hỏi của khách hàng để từ đó đáp ứng ngày càng hoàn chỉnh hơn.

    - Yếu tố về trình độ khoa học công nghệ:

    Với sự phát triển của khoa học công nghệ ngày càng lớn mạnh sẽ tạo ra được lực đẩy giúp cho doanh nghiệp có thể cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá dịch vụ của mình. Đó là những việc tạo ra những sản phẩm mới, NVL mới có khả năng thay thế làm giảm giá thành của các sản phẩm hoặc việc tạo ra những sản phẩm mới có tính năng sử dụng mới hay hơn, hấp dẫn hơn đối với người tiêu dùng.

    - Cơ chế và chính sách quản lý: Môi trường, thể chế, các chính sách về đầu tư, cơ chế chính sách hay môi trường pháp luật cho các hoạt động chất lượng có tác động rất lớn, nó có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá dịch vụ của mỗi đơn vị, kích thích và thúc đẩy các doanh nghiệp đầu tư đổi mới trang thiết bị, phong cách quản lý nhằm tạo ra những sản phẩm tốt hơn đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, không những trong hiện tại mà cả trong tương lai.

    Cơ chế và chính sách quản lý cũng đồng thời tạo ra một môi trường cạnh tranh bắt buộc các doanh nghiệp phải nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa dịch vụ của mình và thông qua đó tạo ra một cơ chế bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp và người tiêu dùng.

    - Yếu tố con người: Yếu tố này sẽ quyết định đến chất lượng sản phẩm hàng hoá dịch vụ một cách trực tiếp. Đây là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu mà mỗi doanh nghiệp cần phải có. Chỉ có những con người có chất lượng mới có thể tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa có chất lượng.

    - Yếu tố nguyên vật liệu (NVL): Là một trong những yếu tố tham gia vào việc cấu thành chất lượng sản phẩm. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Vì vậy, mỗi doanh nghiệp cần phải tìm được NVL có chất lượng ổn định đảm bảo được các tiêu chuẩn mà doanh nghiệp đã đề ra.

    - Trình độ tổ chức quản lý: Chất lượng phụ thuộc vào quản lý và là trách nhiệm của những người quản lý. Nếu một doanh nghiệp có trình độ tổ chức quản lý tốt thì các sản phẩm do họ sản xuất ra có chất lượng tốt và ngược lại. Trình độ quản lý là yếu tố quan trọng quyết định chất lượng của sản phẩm. Khi có trình độ quản lý tốt việc đó dẫn đến sắp xếp đúng việc, hoạt động giám sát chặt chẽ hơn . từ đó việc tạo ra sản phẩm sẽ có chất lượng tốt hơn.

    2.3. Các yếu tố tác động đến chất lượng sản phẩm xây dựng.

    Chất lượng sản phẩm xây dựng là một yếu tố tổng hợp được hình thành nên từ rất nhiều yếu tố khác nhau. Từ các yếu tố của Hệ thống quản lý đến các yếu tố của các hoạt động sản xuất xây dựng: hoạt động thiết kế, hoạt động thi công, hoạt động giám sát Từ các yếu tố đầu vào như nguyên vật liệu xây dựng, bản vẽ thiết kế, đến quá trình xây dựng gồm có: kĩ thuật thi công, thiết bị máy móc hay tay nghề của các công nhân thi công Nhưng nói chung lại chất lượng một công trình thường bị phụ thuộc vào các yếu tố sau, các yếu tố này được thể hiện qua biểu đồ IShikawa sau đây:



















    Sơ đồ số 1: Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng công trình

    Sơ đồ trên cho thấy có 5 nhóm yếu tố tác động đến chất lượng công trình xây dựng:

    Thiết kế: Việc thiết kế một công trình xây dựng phải bảo đảm thoã mãn ít nhất ba yếu tố: Tính tiện lợi, trình độ lao động và kiến trúc. Việc thiết kế một công trình đòi hỏi phải đáp ứng một cách tốt nhất về mục đích sử dụng. Mặt khác, việc thiết kế công trình đòi hỏi phải phù hợp với trình độ của đội ngũ công nhân lao động, không được vượt quá trình độ của công nhân sẽ thi công công trình đó. Hơn nữa, việc thiết kế phải đảm bảo được về mặt kiến trúc, văn hoá, tính thẩm mỹ và yêu cầu kỹ thuật.

    - Thi công: Chất lượng của công trình phụ thuộc vào quá trình thi công. Cụ thể nó bị ảnh hưởng bởi các yếu tố: Nguyên vật liệu, thiết bị máy móc, kỹ thuật thi công và tay nghề lao động. Trong suốt quá trình thi công, chất lượng lượng sản phẩm phụ thuộc rất lớn vào 4 yếu tố này. Không thể xây dựng được một công trình mà chỉ cần một trong bốn yếu tố này không được đảm bảo.

    - Giám sát: Công trình xây dựng là loại sản phẩm mà khó có thể sửa lại được khi bị sai hỏng. Mặt khác việc sai hỏng thường gây hậu quả rất nghiêm trọng. Do đó, giám sát là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng công trình.

    - Môi trường: là yếu tố tác động nhiều đến chất lượng công trình, sự tác động của thời tiết, của nền văn hoá, phong tục tập quán.

    - Hệ thống quản lý chất lượng: Cũng như tất cả các loại sản phẩm khác, công trình xây dựng có chất lượng sẽ được xác định bởi yếu tố con người, tính thống nhất và hệ thống quản lý chất lượng. Tất cả các yếu tố này tạo thành một hệ thống quản lý chất lượng phù hợp. Tất cả các yếu tố này tạo thành một hệ thống để điều khiển quá trình hình thành một công trình xây dựng.

    2.4. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng công trình xây dựng.

    Chất lượng công trình được thể hiện thông qua việc đáp ứng nhu cầu vật chất văn hoá ngày càng cao của khách hàng, của người sử dụng. Những yêu cầu này được xác định hoàn toàn dựa vào đặc tính chất lượng công trình.

    Đầu tiên là tính khả dụng, bất cứ công trình nào đầu tiên cũng phải đáp ứng yêu cầu sử dụng của nó, như nhà ở đòi hỏi môi trường đẹp đẽ, dễ chịu, toà nhà văn phòng cần đáp ứng yêu cầu làm việc, nhà hát phải đáp ứng nhu cầu của người xem, của diễn viên biểu diễn .

    Thứ hai là tính an toàn, tất cả mọi công trình xây dựng đều cần phải đạt độ an toàn tin cậy, có thể chịu được tải trọng của người, vật và sự xâm thực của môi trường tự nhiên.

    Thứ ba là môi trường, tất cả mọi công trình đều có môi trường xung quanh nó, một môi trường hài hoà với con người, điều đó đòi hỏi từ các khâu quy hoạch, thiết kế, trang trí hoàn thiện . cần được nghiên cứu kỹ lưỡng.

    Thứ tư là độ bền, ngoài việc đáp ứng niên hạn sử dụng, đồng thời còn ngăn ngừa nước, lửa và sự tác động của môi trường tự nhiên.

    Thứ năm là tính kinh tế, nghĩa là cần lấy hiệu quả kinh tế lớn nhất, giá thành công trình hợp lý nhất để đáp ứng hiệu ích lớn nhất của công trình.

    Thứ sáu là thời gian sử dụng. Công trình xây dựng đòi hỏi thời gian sử dụng lâu dài. Đặc tính chất lượng này là đặc tính quan trọng và đặc trưng của sản phẩm xây dựng.

    3. Mối quan hệ chất lượng công trình tới các yếu tố khác.

    Một công trình xây dựng thường đi liền với nhiều yếu tố đi kèm như yếu tố về sự sử dụng, đời sống hay tài sản của con người, yếu tố kinh tế xã hội, yếu tố văn hoá môi trường hay có thể là yếu tố phòng thủ quốc gia .và chính chất lượng của công trình tác động trực tiếp đến các yếu tố trên.

    Ngay trong cuộc sống, chất lượng của công trình có tác động đến đời sống, đến các hoạt động sinh hoạt của người sử dụng. Bản thân người sử dụng nhiều khi khó có thể biết được chất lượng công trình xây dựng mà mình đang sử dụng một cách chi tiết và cụ thể như: chất lượng vật liệu bên trong, chất lượng của móng cọc, những phần mà người sử dụng không thể thấy được. Đi liền với đó là tài sản của người sử dụng công trình. Nếu công trình bị hư hại sẽ làm hư hại đến các tài sản khác của người sử dụng, như vậy sẽ làm tăng thêm thiệt hại. Do đó, sự an toàn hay tính mạng và tài sản của người sử dụng phụ thuộc vào chất lượng công trình.

    Các công trình xây dựng luôn nằm trong một không gian địa lý nhất định và không gian xã hội nhất định. Liền kề bên cạch các công trình bao giờ cũng có các công trình xây dựng khác. Do đó, chất lượng công trình cũng tác động đến yếu tố này. Một công trình khi xây dựng phải phù hợp với cảnh quan xung quanh và môi trường xung quanh. Công trình đó phải phù hợp cả về kiến trúc cũng như kích thước quy mô công trình. Nếu công trình có kiến trúc lạc điệu, kích thước quy mô không phù hợp sẽ làm cho cảnh quan và môi trường xung quanh bị phá vỡ, hay kiến trúc pha trộn tạp nham sẽ làm mất đi bản sắc dân tộc trong kiến trúc của công trình.

    Ngoài các công trình dân dụng còn có các công trình mang tầm cỡ quốc gia, mà mức độ quan trọng của nó có quan hệ mật thiết đến các vấn đề kinh tế, xã hội và quân sự của một quốc gia. Ví dụ như các tuyến đường quốc lộ, hệ thống đê điều, cầu cống, các công trình quân sự phòng thủ . Chất lượng của các công trình này thường gắn liền với sự an nguy của quốc gia. Các công trình này mà hư hỏng hay mất đi sẽ làm cho thông thương kinh tế bị ngừng trệ, đe dọa an toàn an ninh, ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân, tác động mạnh đến xã hội. Chúng như lớp vỏ bọc và hệ thống huyết mạch của một quốc gia.

    II.QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG.

    1. Khái niệm quản lý chất lượng.

    Khái niệm về Quản lý chất lượng được rất nhiều đối tượng quan tâm, và được rất nhiều tổ chức nghiên cứu. Mỗi tổ chức đều đưa ra một khái niệm dựa trên mục đích nghiên cứu khác nhau, mỗi khái niệm đều đóng góp một phần vào sự phát triển của khoa học quản lý chất lượng. Sau đây là một khái niệm được coi là đầy đủ và phù hợp với mục đích nghiên cứu về lĩnh vực quản lý hơn cả:

    Quản lý chất lượng là tập hợp những hoạt động của chức năng quản lý chung xác định chính sách chất lượng, mục đích, trách nhiệm và thực hiện chúng thông qua các biện pháp như lập kế hoạch chất lượng, điều khiển chất lượng, đảm bảo chất lượng và cải tiến chất lượng trọng khuôn khổ hệ chất lượng .

    Định nghĩa này khác nhiều so với định nghĩa nêu trong ISO 8402:1980. Trong định nghĩa này nhấn mạnh tới tính hệ thống. Ở đây chất lượng được xác định thông qua các biện pháp như lập kế hoạch, điều khiển chất lượng, đảm bảo chất lượng và cải tiến chất lượng.

    2.Chức năng của quản lý chất lượng.

    2.1. Chức năng hoạch định.

    - Hoạch định là chức năng quan trọng nhất và khâu mở đầu của quản lý chất lượng. Hoạch định chính xác là cơ sở giúp cho doanh nghiệp định hướng tốt các hoạt động tiếp theo. Đây là cơ sở làm giảm đi các hoạt động điều chỉnh.

    - Hoạch định chất lượng làm cho hoạt động của doanh nghiệp có hiệu quả hơn nhờ việc khai thác các nguồn lực một cách có hiệu qủa, giúp cho doanh nghiệp chủ động hơn trong việc đưa ra các biện pháp cải tiến chất lượng.

    - Hoạch định chất lượng bắt đầu xác định được một cách rõ ràng và chính xác các mục tiêu của của doanh nghiệp nói chung và chất lượng nói riêng. Để phục vụ chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp.

    2.2. Chức năng tổ chức thực hiện.

    - Tổ chức thực hiện là quá trình tổ chức điều hành các hoạt động tác nghiệp bằng các phương tiện kỹ thuật, các phương pháp cụ thể nhằm đảm bảo chất lượng theo đúng theo yêu cầu đặt ra.

    - Giúp cho từng người, từng bộ phận nhận thức được mục tiêu của mình một cách rõ ràng và đầy đủ.

    - Phân giao nhiệm vụ cho từng người, từng bộ phận một cách cụ thể và khoa học, tạo sự thoải mái trong quá trình.

    - Giải thích cho mọi người biết chính xác nhiệm vụ cụ thể cần phải được thực hiện.

    Cần phải tiến hành giáo dục và đào tạo cũng như việc cung cấp những kiến thức, kinh nghiệm cần thiết để đảm bảo mỗi người đạt được kế hoạch đề ra.

    Cung cấp các nguồn lực về tài chính, phương tiện kỹ thuật để thực hiện mục tiêu đã đề ra.

    2.3. Chức năng kiểm tra, kiểm soát.

    Theo dõi, thu thập đánh giá thông tin và tình hình thực hiện các mục tiêu chiến lược của doanh nghiệp mà theo kế hoạch đã đề ra.

    Đánh giá tình hình thực hiện các nhiệm vụ và tìm ra những nguyên nhân dẫn đến không hoàn thành nhiệm vụ đó, để đưa ra những biện pháp điều chỉnh, cải tiến kịp thời. So sánh các hoạt động thực tế với kế hoạch đã đề ra để có sự điều chỉnh hợp lý, phù hợp.

    Tìm kiếm nguyên nhân gây ra sự bất ổn khi thực hiện các hoạt động bằng việc kiểm tra hai vấn đề chính:

    ã Mức độ tuân thủ các quy trình, quy phạm kỹ thuật, kỷ luật lao động xem có đảm bảo đầy đủ không và có được duy trì hay không.

    ã kiểm tra tính chính xác cũng như tính khả thi của kế hoạch đã đề ra.

    2.4. Chức năng điều chỉnh và cải tiến.

    Điều chỉnh và cải tiến thực chất là hoạt động quản lý chất lượng của doanh nghiệp có khả năng thực hiện được những tiêu chuẩn chất lượng đã đề ra. Đồng thời cũng là hoạt động nâng chất lượng lên một mức cao hơn, đáp ứng với tình hình mới. Điều đó cũng có nghĩa là làm giảm khoảng cách giữa mong muốn của khách hàng và thực tế chất lượng đạt được.

    Trong quá trình thực hiện có rất nhiều nguyên nhân gây ảnh hưởng tới chất lượng của quá trình và sản phẩm hàng hoá dịch vụ, nên phải điều chỉnh các hoạt động đó sao cho phù hợp sát với nhu cầu thực tế, từ đó có thể đưa chất lượng lên mức cao hơn.

    3. Nội dung của quản lý chất lượng trong doanh nghiệp xây dựng.

    3.1. Quản lý chất lượng trong thiết kế công trình.

    Đây là hoạt động hết sức quan trọng và ngày nay được coi là nhiệm vụ hàng đầu. Mức độ thoả mãn khách hàng hoàn toàn phụ thuộc vào chất lượng của các thiết kế.

    Trong ngành xây dựng thì thiết kế là khâu quan trọng hàng đầu. Không thể thi công được một công trình theo một bản thiết kế tồi hay sai lỗi. Thiết kế sai không những tạo ra công trình kém chất lượng mà có thể không thi công được nếu thiết kế thiếu chính xác. Vì vậy, quản lý chất lượng trong thiết kế công trình phải được thực hiện một cách chặt chẽ.

    Trong giai đoạn này phải tổ chức được một nhóm công tác, thực hiện công tác thiết kế và những bộ phận có liên quan. Đây là giai đoạn sáng tạo ra những sản phẩm mới với đầy đủ những chỉ tiêu về kinh tế kỹ thuật. Do đó, cần đưa ra nhiều phương án sau đó lựa chọn phương án tốt nhất mà phản ánh được nhiều đặc điểm quan trọng của sản phẩm. Như thoả mãn nhu cầu, phù hợp với khả năng của doanh nghiệp, đặc điểm mang tính cạnh tranh, chi phí sản xuất, tiêu dùng hợp lý.

    Đưa ra các phương án và phân tích về mặt thiết kế các đặc điểm của sản phẩm thiết kế. Đó chính là việc so sánh lợi ích thu được từ mỗi đặc điểm của sản phẩm với chi phí bỏ ra. Những chỉ tiêu chủ yếu để đánh giá trong qúa trình thiết kế là trình độ chất lượng. Chỉ tiêu tổng hợp về tài liệu thiết kế công nghệ, chất lượng công việc chế tạo thử sản phẩm. Chỉ tiêu hệ số khuyết tật và chất lượng của các biện pháp điều chỉnh cũng như hệ số chất lượng của thiết bị để chuẩn bị cho việc sản xuất hàng loạt.

    3.2. Quản lý chất lượng trong khâu cung ứng nguyên vật liệu.

    Nguyên vật liệu trong ngành xây dựng chủ yếu là các loại: đá, cát sổi, xi măng, sắt thép, gỗ, sơn bả

    Để thi công được một công trình đúng chất lượng và đúng thời hạn thi công theo kế hoạch thì yêu cầu khâu cung ứng nguyên vật liệu phải đáp ứng được năm yêu cầu cơ bản về: Thời gian, địa điểm, số lượng, chất lượng, đúng chủng loại.

    Vì vậy mà quản lý chất lượng trong giai đoạn này cần:

    - Lựa chọn nhà cung ứng phù hợp để đảm bảo tính ổn định cao của đầu vào trong quá trình sản xuất. Đây chính là việc lựa chọn một số ít trong các nhà cung ứng để xây dựng mối quan hệ ổn định, tin tưởng, lâu dài và thường xuyên.

    - Đánh giá chính xác và đầy đủ các nhà cung ứng đồng thời cùng với họ thiết lập các hệ thống thông tin về chất lượng, một trong những yêu cầu đặt ra là giữa nhà cung ứng, doanh nghiệp và nhà tiêu dùng phải luôn luôn có sự trao đổi thông tin, tài liệu của hệ thống đảm bảo chất lượng để có thể kiểm soát đánh giá lẫn nhau.

    - Những thoả thuận về việc đảm bảo các tiêu chuẩn chất lượng của nguyên vật liệu cung ứng cũng như các phương pháp kiểm tra thẩm định và xác minh.

    - Xác định rõ ràng đầy đủ, thống nhất những điều khoản trong việc giải quyết những trục trặc và khiếm khuyết khi cung ứng, cũng như phương án giao nhận sao cho nhanh chóng và hiệu quả.

    Trong phân hệ cung ứng thì số lần cung ứng nguyên vật liệu không đúng thời hạn, tỉ lệ nguyên vật liệu không đúng tiêu chuẩn và tổng chi phí cho việc kiểm tra quá trình cung ứng là các chỉ tiêu để đánh giá chất lượng của nhà cung ứng. Vì vậy để đảm bảo tính thống nhất thì chúng ta phải đảm bảo quản lý phân hệ này một cách thường xuyên.

    3.3. Quản lý chất lượng trong quá trình thi công.

    Mục đích của giai đoạn này là huy động và khai thác có hiệu quả quy trình công nghệ thiết bị và con người đã lựa chọn để sản xuất sản phẩm có chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn của khách hàng. Điều đó có nghĩa là chất lượng sản phẩm phải hoàn toàn phù hợp với các thiết kế.

    Để đạt được mục đích đó chúng ta phải tập trung vào các nhiệm vụ sau:

    ã Phân công công việc: là việc thông báo đến các thành viên về mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp tiến hành cũng như là đưa ra những chuẩn mực về thao tác những phương pháp phải làm như kiểm tra nguyên vật liệu đầu vào, kiểm tra máy móc thiết bị trước khi đưa vào sản xuất, kiểm tra các chi tiết bộ phận trong từng giai đoạn, kiểm tra tình hình kỷ luật lao động, kiểm tra các phương tiện đo lường chất lượng.

    ã Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng trong các giai đoạn sản xuất đó là những thông số về tiêu chuẩn kĩ thuật của các chi tiết bộ phận, của máy móc thiết bị phải luôn luôn được cập nhật, đổi mới và kiểm soát thường xuyên. Các chỉ tiêu đánh giá các tổn thất, lãng phí do các sản phẩm không đạt tiêu chuẩn cũng như các chỉ tiêu đánh giá thình hình thực hiện các quy trình quy phạm phải luôn luôn được ghi chép một cách chi tiết và đầy đủ để có thể kiểm soát được sự thay đổi biến động của giá thành trong quá trình sản xuất.

    3.4. Quản lý chất lượng trong quá trình bàn giao và sử dụng công trình.

    Mục đích của giai đoạn này là bàn giao công trình đúng thời hạn và đúng chất lượng đặt ra, tổ chức bảo hành sản phẩm sau khi bàn giao công trình. Bên cạnh đó phải tìm cách tạo điều kiện thuận lợi cho người tiêu dùng có thể khai thác sử dụng tối đa những tính năng chất lượng của công trình.

    Trước khi bàn giao công trình Công ty cần thực hiện quá trình nghiệm thu một cách chặt chẽ, đồng thời hoàn thành tất cả những khoản mục còn lại của hợp đồng và yêu cầu bên tiếp nhận công trình đảm bảo thực hiện đúng các hướng dẫn sử dụng công trình, cách thức bảo vệ chất lượng công trình. Đây thực chất là hoạt động bảo hành sản phẩm xây dựng sau khi ban giao.

    Sau khi bàn giao công trình, Công ty cần nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng công trình trong quá trình sử dụng. Trên cơ sở đó đưa ra các biện pháp đảm bảo chất lượng như: thực hiện chống ẩm mốc, hướng dẫn cách sử dụng công trình đúng tiêu chuẩn. Kiểm tra công trình định kỳ từ đó đưa ra các biện pháp khắc phục sửa chữa nếu có.

    Quản lý chất lượng trong quá trình bàn giao và sử dụng công trình tốt sẽ nâng cao uy tín, danh tiếng cho Công ty từ đó có thể biến nguy cơ thành cơ hội kinh doanh.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...