Thạc Sĩ Nghiên cứu trí tuệ cảm xúc của sinh viên trường ĐH Tây Nguyên

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 7/12/14.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    1
    MỤC LỤC
    Trang phụ bìa . i
    Lời cam đoan . ii
    Lời cảm ơn . iii
    Mục lục . 1
    Danh mục các chữ viết tắt 3
    Danh mục các bảng biểu, đồ thị . 4
    MỞ ĐẦU 5
    1. Lí do chọn đề tài 5
    2. Mục đích nghiên cứu . 6
    3. Đối tượng, khách thể nghiên cứu . 6
    4. Nhiệm vụ nghiên cứu . 6
    5. Phạm vi nghiên cứu . 6
    6. Giả thuyết khoa học . 6
    7. Phương pháp nghiên cứu . 7
    8. Đóng góp mới của luận văn . 7
    9. Cấu trúc của luận văn . 7
    Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ TRÍ TUỆ CẢM XÚC 8
    1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề trí tuệ cảm xúc . 8
    1.1.1. Những nghiên cứu ở trên thế giới . 8
    1.1.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam . 11
    1.2. Trí tuệ và trí tuệ cảm xúc . 12
    1.2.1. Trí tuệ 12
    1.2.2. Cảm xúc . 14
    1.2.3. Trí tuệ cảm xúc 19
    1.3. Trí tuệ cảm xúc của sinh viên 33
    1.3.1. Đặc điểm phát triển trí tuệ của lứa tuổi sinh viên 33
    1.3.2. Đặc điểm xúc cảm, tình cảm của sinh viên . 34
    1.3.3. Trí tuệ cảm xúc của sinh viên . 35 2
    Chương 2: TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU . 36
    2.1. Tổ chức nghiên cứu lí luận 36
    2.1.1. Mục đích nghiên cứu 36
    2.1.2. Nội dung nghiên cứu 36
    2.1.3. Phương pháp nghiên cứu 36
    2.2. Tổ chức nghiên cứu thực trạng 36
    2.2.1. Mục đích nghiên cứu 36
    2.2.2. Khách thể nghiên cứu 36
    2.2.3. Phương pháp nghiên cứu 38
    2.3. Tổ chức nghiên cứu thực nghiệm 41
    2.3.1. Mục đích nghiên cứu thực nghiệm . 41
    2.3.2. Khách thể nghiên cứu 41
    2.3.3. Giới hạn thực nghiệm . 41
    2.3.4. Nội dung thực nghiệm 42
    2.4. Kế hoạch nghiên cứu 44
    Chương 3 : KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VÀ THỰC NGHIỆM
    3.1. Kết quả nghiên cứu thực trạng 45
    3.1.1. Thực trạng mức độ trí tuệ cảm xúc của sinh viên trường ĐHTN 45
    3.1.2. Mối quan hệ giữa TTCX và KQHT của sinh viên trường ĐHTN . 54
    3.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến TTCX của sinh viên ĐHTN . 56
    3.2. Đề xuất và thử nghiệm một số biện pháp nâng cao TTCX của sinh viên
    trường ĐHTN . 66
    3.2.1. Một số biện pháp nâng cao trí tuệ cảm xúc của sinh viên ĐHTN 66
    3.2.2. Thực nghiệm biện pháp nâng cao trí tuệ cảm xúc của sinh viên ĐHTN 67
    KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ . 70
    1. Kết luận . 70
    2. Kiến nghị . 71
    TÀI LIỆU THAM KHẢO . 72
    PHỤ LỤC . 743
    DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
    ĐHTN Đại học Tây Nguyên
    SV Sinh viên
    EI Trí tuệ cảm xúc
    EQ Chỉ số trí tuệ cảm xúc
    IQ Chỉ số thông minh
    KQHT Kết quả học tập
    TB Trung bình
    TL% Tỉ lệ phần trăm
    TN Thực nghiệm
    TS Tần số
    Qtkd Quản trị kinh doanh
    Dân tộc Dân tộc 4
    DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU, BIỂU ĐỒ
    Bảng 2.1. Phân bố khách thể nghiên cứu 37
    Bảng 3.1. Kết quả điểm EQ của sinh viên ĐHTN 45
    Biểu đồ 3.1. Mức độ trí tuệ cảm xúc của sinh viên . 46
    Bảng 3.2. So sánh điểm EQ trung bình của sinh viên 2 khoa . 47
    Biểu đồ 3.2. Mức độ trí tuệ cảm xúc của sinh viên 2 khoa . 48
    Bảng 3.3. So sánh điểm EQ trung bình của sinh viên theo năm học 49
    Biểu đồ 3.3. Mức độ trí tuệ cảm xúc của năm 1, năm 2, năm 3 50
    Bảng 3.4. So sánh điểm EQ trung bình của sinh viên theo giới tính . 50
    Biểu đồ 3.4. Mức độ trí tuệ cảm xúc của sinh viên nam và nữ . 51
    Bảng 3.5. Kết quả điểm EQ của sinh viên theo lớp học . 52
    Bảng 3.6. So sánh điểm EQ trung bình của sinh viên theo dân tộc . 53
    Biểu đồ 3.5. Mức độ trí tuệ cảm xúc của sinh viên theo dân tộc . 54
    Bảng 3.7. Kết quả học lực trung bình các môn của sinh viên . 54
    Bảng 3.8. Tần suất điểm EQ và KQHT của sinh viên 55
    Bảng 3.9. Tương quan giữa điểm EQ và KQHT của sinh viên 56
    Bảng 3.10. Đánh giá của sinh viên về TTCX bản thân 58
    Bảng 3.11. Mức độ thể hiện tình cảm trong quan hệ giao tiếp xã hội . 59
    Bảng 3.12. Đánh giá của sinh viên về các yếu tố ảnh hưởng đến TTCX 60
    Bảng 3.13. Ảnh hưởng của các yếu tố gia đình đến trí tuệ cảm xúc . 62
    Bảng 3.14. Ảnh hưởng của giáo dục của nhà trường đến trí tuệ cảm xúc 64
    Bảng 3.15. So sánh giá trị trung bình điểm số EQ của nhóm thực nghiệm . 68 5
    MỞ ĐẦU
    1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
    Trí tuệ cảm xúc (Emotional Intelligence) là một khái niệm hiện đại đang
    được nghiên cứu và ứng dụng trong mọi lĩnh vực sống của con người.
    Các chuyên gia tâm lý đã khẳng định rằng: một khi cá nhân đã có tất cả các yếu tố
    trí tuệ cảm xúc, thậm chí chỉ với chỉ số thông minh trung bình, cá nhân đó có thể
    thành đạt trong cuộc sống, trong sự nghiệp. Ngược lại, những người có chỉ số thông
    minh cao nhưng thiếu hụt trong trí tuệ cảm xúc thì họ rất khó thành công trong cuộc
    sống, thậm chí ở vị trí thấp hơn những người có chỉ số thông minh trung bình nhưng
    có trí tuệ cảm xúc cao.
    Mặt khác, các nhà tâm lý học hiện đại khi nghiên cứu về EQ đã kết luận: hệ
    số trí tuệ cảm xúc không phải một đại lượng bất biến mà có thể thay đổi thông qua
    hoạt động. Vì vậy, mỗi cá nhân có thể luyện tập để nâng cao trí tuệ cảm xúc của
    mình theo những bước nhất định với sự hướng dẫn của các chuyên gia tâm lý học.
    Trí tuệ cảm xúc là một hiện tượng tâm lý phức hợp có vai trò quan trọng trong sự
    thành công của hoạt động con người trong xã hội hiện đại. Vì vậy, tìm hiểu và xác
    định và phát triển trí tuệ cảm xúc của con người là một vấn đề cần có những nghiên
    cứu tiếp tục.
    Trong giai đoạn hiện nay, đất nước ta đang trong thời kì CNH - HĐH, sinh
    viên là nguồn nhân lực lao động chất lượng cao phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ xây
    dựng và bảo vệ tổ quốc. Vì vậy, việc nghiên cứu, bồi dưỡng và phát triển trí tuệ nói
    chung, trí tuệ cảm xúc nói riêng cho sinh viên là nhiệm vụ cần thiết và quan trọng
    nhằm thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống, tăng cường hiệu quả hoạt
    động học tập, nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, phát triển nhân cách toàn diện
    của sinh viên.
    Qua nghiên cứu thực tiễn, phần lớn sinh viên trường ĐHTN còn chưa nhận
    thức đầy đủ về vai trò của trí tuệ cảm xúc đối với cuộc sống nói chung và hoạt động
    học tập nói riêng. Đồng thời khả năng tự rèn luyện nâng cao trí tuệ cảm xúc của họ
    còn nhiều hạn chế. Ngoài ra, công tác giáo dục đào tạo trong nhà trường còn quá 6
    chú trọng đến đào tạo chuyên môn nghiệp vụ mà chưa chú ý đúng mức đến công tác
    giáo dục, bồi dưỡng nâng cao trí tuệ cảm xúc cho sinh viên - một yếu tố góp phần
    vào sự thành công trong hoạt động học tập cũng như trong cuộc sống của họ. Xuất
    phát từ những lý do trên, đề tài : “Nghiên cứu trí tuệ cảm xúc của sinh viên trường
    Đại học Tây Nguyên” được lựa chọn và tiến hành nghiên cứu.
    2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
    Tìm hiểu thực trạng các mức độ trí tuệ cảm xúc và những yếu tố ảnh hưởng đến
    trí tuệ cảm xúc của sinh viên trường ĐHTN, từ đó đề xuất và thử nghiệm một số
    biện pháp nhằm bồi dưỡng trí tuệ cảm xúc cho các em, góp phần nâng cao kết quả
    học tập của họ.
    3. ĐỐI TƯỢNG, KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
    3.1. Đối tượng nghiên cứu: Mức độ trí tuệ cảm xúc của sinh viên trường ĐHTN.
    3.2. Khách thể nghiên cứu:
    * Khách thể nghiên cứu thực trạng: 284 sinh viên trường ĐHTN: 133 SV khoa
    Kinh tế và 151 SV khoa Sư Phạm
    * Khách thể nghiên cứu thực nghiệm: 20 SV năm 1 thuộc khoa SP và khoa KT.
    4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
    4.1. Khái quát một số vấn đề lí luận về trí tuệ, cảm xúc và trí tuệ cảm xúc, trí tuệ
    cảm xúc của sinh viên
    4.2. Khảo sát thực trạng các mức độ của trí tuệ cảm xúc của SV trường ĐHTN.
    4.3. Đề xuất và thử nghiệm một số biện pháp tác động nhằm góp phần nâng cao
    mức độ trí tuệ cảm xúc của sinh viên trường Đại học Tây Nguyên.
    5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
    * Khách thể nghiên cứu: 284 sinh viên thuộc năm1, năm 2, năm 3 thuộc khoa Sư
    Phạm và khoa Kinh Tế.
    * Địa bàn nghiên cứu: trường Đại học Tây nguyên
    * Thời gian nghiên cứu: tháng 04 năm 2008 đến tháng 12 năm 2008
    6. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
    Chúng tôi giả định rằng trí tuệ cảm xúc của sinh viên trường ĐHTN còn ở
    mức độ thấp và chúng do nhiều yếu tố chi phối. Bằng các biện pháp tác động có thể
    nâng cao trí tuệ cảm xúc cho sinh viên trường Đại học Tây Nguyên.7
    7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
    7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
    Phân tích, tổng hợp tài liệu, để tổng quan các vấn đề lí luận về trí tuệ cảm xúc.
    7.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
    Phương pháp trắc nghiệm, phương pháp quan sát, phương pháp trò chuyện,
    phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, phương pháp thực nghiệm, phương pháp
    nghiên cứu sản phẩm hoạt động, nhằm khảo sát thực trạng và thử nghiệm một số
    biện pháp tác động nâng cao trí tuệ cảm xúc của sinh viên ĐHTN.
    7.3. Phương pháp thống kê toán học
    Dùng các công thức thống kê để xử lí và phân tích các kết quả nghiên cứu và phần
    mềm SPSS 1.3 for window.
    8. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN
    8.1. Luận văn góp phần làm sáng tỏ cơ sở lí luận về trí tuệ cảm xúc của sinh viên.
    8.2. Chỉ ra được hiện trạng và thử nghiệm các biện pháp nâng cao trí tuệ cảm xúc
    cho sinh viên trường ĐHTN.
    9. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
    Mở đầu
    Chương 1: Cơ sở lí luận của đề tài
    Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu
    Chương 3: Kết quả nghiên cứu
    Kết luận và kiến nghị
    Tài liệu tham khảo
    Phụ lục 8
    Chương 1
    CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ TRÍ TUỆ CẢM XÚC
    1.1. VÀI NÉT VỀ LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU TRÍ TUỆ CẢM XÚC
    Trí tuệ cảm xúc là một hiện tượng tâm lí mới biết đến gần đây nhưng có ảnh
    hưởng đáng kể đến nhiều lĩnh vực thuộc tâm lí học. Do có lịch sử nghiên cứu chưa
    nhiều nên việc xác định bản chất, cấu trúc, chẩn đoán về trí tuệ cảm xúc còn là một
    vấn đề khó khăn, phức tạp đối với tâm lý học hiện đại.
    Có thể khái quát một số hướng nghiên cứu trong nước và ngoài nước như sau:
    1.1.1. Những nghiên cứu trên thế giới
    E. Thorndike (1970), giáo sư tâm lý học ở trường Đại học tổng hợp Columbia -
    là một trong những người đầu tiên tìm cách nhận dạng trí tuệ cảm xúc mà lúc đó
    ông gọi là trí tuệ xã hội. Trí tuệ xã hội theo ông là “năng lực hiểu và kiểm soát mà
    một người đàn ông, đàn bà, con trai, con gái dùng để hành động một cách khôn
    ngoan trong các mối quan hệ của con người” [4, tr. 4]. Đó là một dạng năng lực mà
    sự có mặt của nó rất phong phú, từ công việc của người y tá, người gác cổng trong
    doanh trại, trong nhà máy, quầy bán hàng, nhưng nó cũng có những điều kiện được
    tiêu chuẩn hóa một cách chính thức ở phòng thí nghiệm. E. Thorndike đề nghị một
    số phương pháp đánh giá trí tuệ xã hội trong phòng thí nghiệm nhưng đó là một quá
    trình giản đơn: làm cho có sự phù hợp giữa những bức tranh có các khuôn mặt biểu
    lộ các cảm xúc khác nhau với việc nhận biết, mô tả đúng những xúc cảm đó.
    Năm 1937, Robert Thorndike và Saul Stern xem xét những cố gắng đo lường
    của E. Thorndike đưa ra. Họ nhận diện được 3 khu vực khác kề cận với trí tuệ xã
    hội có thể liên quan đến nó và thường lầm lẫn với nó, đó là:
    Thứ nhất là thái độ cá nhân đối với xã hội.
    Thứ hai là sự hiểu biết xã hội: những vấn đề đương đại và những thông tin
    chung về xã hội.
    Thứ ba là mức độ điều chỉnh xã hội của cá nhân: hướng nội và hướng ngoại
    được đo bằng những câu trả lời đối với các phiếu hỏi. 9
    Tuy nhiên, sau một thời gian nghiên cứu Thorndike và Stern kết luận rằng,
    những cố gắng đo lường năng lực ứng xử với mọi người đã ít nhiều thất bại. Điều
    này có thể là do trí tuệ xã hội là một phức hợp gồm một số các năng lực khác nhau
    hoặc một phức hợp của một số lớn các thói quen và thái độ xã hội cụ thể.
    Nửa thế kỷ tiếp theo, các nhà tâm lý học hành vi và trào lưu đó lường IQ đã
    quay trở lại ý tưởng đo lường EI. Năm 1952, David Wechsler mặc dù vẫn tiếp tục
    phát triển các trắc nghiệm IQ của mình, cũng đã thừa nhận các năng lực xúc cảm
    như là một phần trong vô số các năng lực của con người [4, tr. 9].
    Howard Gardner (1983) là người đã đưa ra mô hình đa trí tuệ nổi tiếng và ông
    cho rằng trí tuệ cá nhân gồm 2 loại: trí tuệ nội nhân cách (intrapersonal intelligence)
    và trí tuệ liên nhân cách (interpersonal intelligence) hay còn gọi là trí tuệ về bản
    thân và trí tuệ về người khác [7, tr. 10].
    Reuven Bar - On(1985), nhà tâm lý học người Israel (quốc tịch Mỹ), là người
    đầu tiên đưa ra thuật ngữ EQ (Emotional Intelligence Quotient) trong luận án tiến sĩ
    của mình. Sau đó, ông xuất bản tập EQ (Emotional Quotient Intelligence, 1997) -
    trắc nghiệm đầu tiên về trí tuệ cảm xúc. Ông đã nhận diện được 5 khu vực bao quát
    về mặt chức năng phù hợp với thành công trong cuộc sống gồm:
    Các kĩ năng làm chủ xúc cảm của mình.
    Các kĩ năng điều khiển xúc cảm liên cá nhân.
    Tính thích ứng (adaptability).
    Kiểm soát stress (stress management).
    Tâm trạng chung (general mood).
    Peter Salovey (đại học Yale - Mỹ) và John Mayer (đại học Newhampshine -
    Mỹ, 1990) đã công bố lý thuyết trí tuệ cảm xúc trong bài báo “trí tuệ cảm xúc”.
    Trong mô hình nguyên thủy của hai tác giả này, trí tuệ cảm xúc được xem như là
    năng lực làm chủ, điều khiển, kiểm soát xúc cảm, tình cảm của mình và của người
    khác cũng như năng lực sử dụng những thông tin này để dẫn dắt, định hướng cách
    suy nghĩ và hành động của một cá nhân.
    Sau một thời gian nghiên cứu, năm 1997 Mayer và Salovey chính thức định
    nghĩa trí tuệ cảm xúc: “trí tuệ cảm xúc như là năng lực nhận biết, bày tỏ xúc cảm, 10
    hòa xúc cảm vào suy nghĩ, hiểu, suy luận với xúc cảm, điều khiển, kiểm soát xúc
    cảm của mình và của người khác” [8, tr.9].
    Năm 1995, Daniel Goleman, tiến sĩ tâm lí học của Đại học Harward, người phụ
    trách chuyên mục khoa học tờ Time, tập hợp các kết quả nghiên cứu về trí tuệ cảm
    xúc và viết thành cuốn sách gây tiếng vang lớn ở Mỹ với nhan đề “trí tuệ cảm xúc:
    tại sao nó lại có thể quan trọng hơn IQ đối với tính cách, sức khỏe và sự thành công
    trong suốt cuộc đời?” (Emotional Intelligence - Why it can matter more than IQ for
    Character, Heath and Lifelong Achievement?). Từ đây trí tuệ cảm xúc trở thành yếu
    tố quan trọng để lựa chọn con người vào vị trí lãnh đạo. Ông khẳng định rằng:
    “Chúng ta có hai hình thức khác nhau của trí tuệ: trí tuệ lí trí và trí tuệ cảm xúc.
    Cách chúng ta hướng dẫn cuộc sống của mình được quyết định bởi hai loại trí tuệ
    ấy. Trí tuệ cảm xúc cũng quan trọng như IQ. Trên thực tế không có trí tuệ cảm xúc
    thì trí tuệ lí trí không thể hoạt động một cách thích đáng” [3, tr.28]. Quan niệm này
    không phải là sự giải thoát khỏi các cảm xúc và thay thế chúng bằng lí trí mà là tìm
    được sự cân bằng giữa hai mặt đó.
    D. Goleman nghiên cứu trí tuệ cảm xúc theo lý thuyết hiệu quả thực hiện công
    việc, ông xác định “ mô hình trí tuệ cảm xúc dựa trên lý thuyết này có thể ứng
    dụng trực tiếp vào khu vực - hiệu quả quản lí và hoàn thành công việc, đặc biệt
    trong dự đoán mức độ tối ưu của việc thực hiện công việc từ người bán hàng đến
    công việc của người quản lí” [3, tr.2 - 3].
    Mô hình trí tuệ cảm xúc do D. Goleman đề xuất là một mô hình hỗn hợp gồm 5 lĩnh
    vực:
    Hiểu biết về xúc cảm của mình (Knowing one,s emotion)
    Quản lý xúc cảm (Managing Emotions)
    Tự thúc đẩy/ động cơ hóa mình (Motivating oneselt)
    Nhận biết xúc cảm của người khác (Recogninzing emotions in others)
    Xử lý các mối quan hệ (Handling relationships)
    Năm 1998, Daniel Goleman tiếp tục xuất bản cuốn “Làm việc với trí tuệ cảm
    xúc” (Working with Emotional Intelligence). So với mô hình và định nghĩa đầu tiên
    về trí tuệ cảm xúc của Salovey và Mayer, ông đã bổ sung 5 năng lực cảm xúc và xã 11
    hội cơ bản là: năng lực tự ý thức, năng lực tự điều chỉnh, năng lực thúc đẩy, năng
    lực đồng cảm và các kĩ năng xã hội [4, tr.18].
    Có thể nói D. Goleman là tác giả lớn của một loạt các tác phẩm về trí tuệ cảm
    xúc như: “Nghệ thuật lãnh đạo cơ bản: việc nhận thấy sức mạnh của EI” (2002),
    “Những xúc cảm dễ bị phá vỡ: làm thế nào để vượt qua” (2003), “Trí tuệ cảm xúc -
    ứng dụng trong công việc” (2007) Những nghiên cứu của ông không chỉ dừng lại
    ở việc xác định bản chất của trí tuệ cảm xúc mà còn tìm ra những biện pháp giáo
    dục nó một cách hiệu quả.
    Tóm lại, trên thế giới có 3 đại diện tiêu biểu nghiên cứu về trí tuệ cảm xúc:
    1. Daniel Goleman đề ra lý thuyết hiệu quả thực hiên công việc trong đó đưa
    ra kiểu mô hình hỗn hợp mô tả trí tuệ cảm xúc bao gồm các năng lực tâm lý và các
    phẩm chất nhân cách. Mô hình hỗn hợp này giúp cho dự đoán và phát triển năng lực
    vượt trội của những cá nhân xuất sắc trong công việc của từng loại nghề nghiệp, ở
    từng cấp độ. Mô hình hỗn hợp này có độ hiệu lực dự đoán rất cao (D. Goleman,
    2003).
    2. Rewen Bar - On đưa ra lý thuyết phân cách và kiểu mô hình hỗn hợp
    bằng cách hòa trộn vào trí tuệ cảm xúc những đặc tính phi năng lực.
    3. J. Mayer và P. Salovey đã đưa ra mô hình thuần nhất năng lực, chú ý vào
    khái niệm hạt nhân của trí tuệ cảm xúc, đó chính là các xúc cảm và sự tương tác
    giữa xúc cảm và ý nghĩ. Như vậy, việc coi trí tuệ cảm xúc là năng lực tâm lý đã tách
    nó ra khỏi các loại trí thông minh truyền thống.
    1.1.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam
    Ở Việt nam, thuật ngữ “trí tuệ cảm xúc” và các công trình nghiên cứu về trí tuệ
    cảm xúc còn mới đi được những bước đầu tiên.
    Năm 1997, thuật ngữ “trí tuệ cảm xúc” chính thức được đề cập đến trong một cuộc
    xê-mi-na của các nhà nghiên cứu công trình khoa học cấp nhà nước KX - 07 do GS.
    Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm.
    PGS.TS Nguyễn Huy Tú đã đăng một số bài chuyên khảo về trí tuệ cảm xúc trên
    tạp chí Tâm lý học của viện khoa học xã hội Việt Nam, chẳng hạn, tháng 12 năm 12
    2000, bài đầu tiên có tiêu đề : “trí tuệ cảm xúc - bản chất và phương pháp chẩn
    đoán”.
    Trong những năm gần đây, vấn đề trí tuệ cảm xúc được nghiên cứu nhiều
    hơn ở những cấp độ khác nhau và đã đạt được kết quả nhất định, chẳng hạn: năm
    2002, Nguyễn thị Dung, Dương thị Hoàng Yến đã nghiên cứu loại trí tuệ này ở giáo
    viên tiểu học trong luận văn thạc sĩ (thực hiện tại Viện Khoa học Giáo dục, đại học
    Sư Phạm Hà Nội): năm 2006, Lê Hồng Lợi nghiên cứu trí tuệ cảm xúc của sinh viên
    trường cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật tỉnh Nghệ An và nhiều công trình nghiên cứu
    khác
    Kết luận: Ở Việt Nam và trên thế giới, những công tình nghiên cứu về trí tuệ
    cảm xúc và đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy vậy, còn ít công trình nghiên
    cứu về trí tuệ cảm xúc và biện pháp nâng cao trí tuệ cảm xúc cho sinh viên đại học.
    Việc chúng tôi lựa chọn và tiến hành nghiên cứu trí tuệ cảm xúc của sinh viên
    trường đại học Tây Nguyên với mong muốn góp phần làm sáng tỏ hơn cơ sở lý luận
    và thực tiễn của trí tuệ cảm xúc ở Việt Nam.
    1.2. TRÍ TUỆ VÀ TRÍ TUỆ CẢM XÚC
    1.2.1. Trí tuệ
    Trí tuệ được các nhà khoa học tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau nên cũng có nhiều
    định nghĩa khác nhau.
    * Trong từ điển Anh - Việt: Trí tuệ - Intellect là khả năng của trí óc lập luận
    để có được kiến thức, khả năng hiểu biết rộng và khả năng lập luận tốt. (trái ngược
    với cảm xúc và bản năng)
    * Trong từ điển Tiếng Việt: Trí tuệ là khả năng nhận thức lí tính đạt đến một
    trình độ nhất định.
    * Theo từ điển Tâm lí học(Nguyễn Khắc Viện chủ biên):
    Trí tuệ là khả năng hành động thích nghi với biến đổi của hoàn cảnh, thiên về tư
    duy trừu tượng.
    * Trong tâm lí học, trí tuệ được hiểu theo 3 hướng sau:
    Trí tuệ là năng lực học tập, năng lực nhận thức của con người (Levitov, V.V.
    Bogoxlovxki) 13
    Trí tuệ là năng lực tư duy trừu tượng, chẳng hạn: Terman khẳng định rằng;
    một cá nhân thông minh tương ứng với khả năng thực hiện tư duy trừu tượng: R.
    Sternberg cho rằng; định tính cơ bản hàng đầu của trí tuệ là năng lực tâm thần ở
    mức độ cao, chẳng hạn suy luận trừu tượng: X.L. Rubinstein xem hạt nhân cơ bản
    của trí tuệ là các thao tác tư duy.
    Trí tuệ là năng lực thích ứng của cá nhân. Đây là định nghĩa phổ biến nhất
    được nhiều nhà tâm lý học tán thành, chẳng hạn:
    W. Stern cho rằng trí tuệ là năng lực chung của một cá nhân biết đặt tư duy
    của mình một cách có ý thức vào những yêu cầu mới. Đây là năng lực thích ứng
    tinh thần chung đối với nhiệm vụ và điều kiện mới của đời sống:
    Garner xem trí thông minh như là một năng lực được dùng để giải quyết vấn đề tạo
    ra các sản phẩm có giá trị cho ngữ cảnh văn hóa cụ thể (Howard Gardner, 1999).
    D. Wechsler (1958) định nghĩa: trí thông minh như là năng lực tổng thể hoặc
    năng lực chung của cá nhân để hành động có mục đích, để suy nghĩ hợp lí và để ứng
    phó có hiệu quả với môi trường của mình.
    J. Piaget nhấn mạnh: bất cứ một quá trình nào cũng là sự thích ứng. Bản chất
    của trí tuệ bộc lộ trong việc cấu tạo những mối quan hệ giữa cá thể với môi trường.
    V.M.Blaykhe và L.Ph.Burơlachuc (1978) đã định nghĩa trí tuệ là một cấu
    trúc động, tương đối độc lập của các thuộc tính nhận thức của nhân cách được hình
    thành và biểu hiện trong các hoạt động, chịu sự chế ước của các điều kiện văn hóa -
    lịch sử và có chức năng chủ yếu là đảm bảo cho sự tác động qua lại phù hợp với
    hiện thực xung quanh, cho sự cải tạo nó có mục đích hiện thực ấy.
    R. Sternberg (1948) đã định nghĩa: trí tuệ là sự thích ứng có mục đích với
    môi trường, có nghĩa quan niệm trí tuệ là kết quả tương tác của con người với môi
    trường sống đồng thời là tiền đề cho sự tương tác ấy. Ông quan niệm trí tuệ là kết
    quả tương tác của con người với môi trường sống đồng thời là tiền đề cho sự tương
    tác ấy.
    Do nội dung của khái niệm trí tuệ được mở rộng nên các thuật ngữ về trí tuệ cũng
    được thay đổi. Ngày nay, trí tuệ được hiểu theo nghĩa rộng hơn trí thông minh, nó không chỉ bao gồm trí thông minh theo quan niệm truyền thống, mà bao gồm trí
    sáng tạo (creativity) và trí tuệ xã hội (social intelligence).
    Năm 1989, H.J. Eysenck đã tổng hợp các quan niệm và kết quả nghiên cứu
    trước đó để đề xuất mô hình trí tuệ ba tầng bậc, gồm:
    - Trí tuệ sinh học (Biological Intelligence): là mặt sinh học của các năng lực trí
    tuệ, là nguồn gốc chính của những khác biệt về trí tuệ cá nhân.
    - Trí tuệ tâm trắc (Psychometric Intelligence): là mặt trí tuệ đo được bằng các
    trắc nghiệm IQ, CQ truyền thống, được xây dựng trong tình huống giả định, có tính
    hàn lâm (chưa phải là tình huống thực trong cuộc sống).
    - Trí tuệ xã hội (Social Intelligence): là thể hiện của trí tuệ tâm trắc trong việc
    giải quyết nhiệm vụ cuộc sống của chủ thể có nhận thức rõ ràng về bản thân, xã hội
    và mối quan hệ giữa bản thân với xã hội.
    Tóm lại, từ các quan điểm của các nhà tâm lý học về trí tuệ có thể rút ra điểm thống
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...