Tài liệu Nghiên cứu thực trạng công tác y tế trường học ở Việt Nam hiện nay và đề xuất mô hình quản lý phù hợ

Thảo luận trong 'Y Khoa - Y Dược' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    ĐỀ TÀI: Nghiên cứu thực trạng công tác y tế trường học ở Việt Nam hiện nay và đề xuất mô hình quản lý phù hợp

    ĐẶT VẤN ĐỀ

    Công tác chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho học sinh luôn là mối quan tâm hàng đầu của toàn xă hội. Cho tới nay, đă có rất nhiều văn bản, chỉ thị, quyết định do Thủ tướng Chính phủ, hai Bộ Y tế và Bộ Giáo dục Đào tạo ban hành chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện nhằm tăng cường công tác y tế tại các trường học [4], [5], [6], [7], [28], [47], [49], [51]. Cụng tác y tế trường học đă và đang được các ngành các cấp, phụ huynh học sinh và nhân dân quan tâm. Đặc biệt bên cạnh đó, nhiều tổ chức quan tâm đă và đang cú cỏc chương tŕnh dự án tài trợ nhằm nâng cao sức khỏe trường học như Quĩ Nhi đồng liên hiệp quốc (UNICEF), Tổ chức y tế thế giới (WHO), Ngân hàng thế giới (WB), tổ chức Plan tại Việt nam, Tổ chức mắt hột quốc tế v.v. [49]
    Trong những năm qua Đảng và Nhà nước đă quan tâm đầu tư phát triển giáo dục, coi “Giỏo dục là quốc sách hàng đầu’. Phát triển sự nghiệp giáo dục là trách nhiệm không phải của riêng một cá nhân nào mà là của toàn xă hội. Bên cạnh việc cải tiến các chương tŕnh giáo dục, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, Nhà nước đă đầu tư xây dựng cơ sở vật chất (trường lớp, bàn ghế ), cung cấp trang thiết bị phù hợp theo lứa tuổi học sinh cho các trường học. Tuy nhiên, cho đến nay y tế trường học c̣n nhiều vấn đề cần được quan tâm [49], [51].
    Theo báo cáo tổng hợp t́nh h́nh y tế trường học năm 2002 của Bộ Y tế, chỉ có 44/61 tỉnh thành phố có báo cáo về y tế trường học, trong đó 40/61 tỉnh thành có ban chỉ đạo cấp tỉnh theo hướng dẫn của liên Bộ Y Tế và Bộ Giáo dục và Đào tạo, 30/61 tỉnh có văn bản liên ngành y tế – giáo dục hướng dẫn các cấp thực hiện [51]. Chưa có tỉnh nào có đủ ban chỉ đạo y tế trường học cấp huyện. Các hoạt động y tế trường học triển khai chưa nhiều, nơi có triển khai cũng chỉ có một số nội dung như tạo phong trào xanh sạch đẹp, cung cấp nước uống cho học sinh, các công tŕnh vệ sinh có tiến bộ nhưng cũng chỉ đạt khoảng 50% yêu cầu, công tác khám sức khoẻ định kỳ, quản lư hồ sơ sức khoẻ hầu hết chưa thực hiện theo quy định. Toàn quốc chưa có số liệu chính thức về các bệnh trường học như cận thị và cong vẹo cột sống ở học sinh [51] Có nhiều khó khăn, tồn tại trong việc thực hiện hoạt động YTTH chưa được giải quyết như vấn đề đội ngũ cán bộ y tế trường học, kinh phí cho hoạt động y tế trường học, trách nhiệm của mỗi ngành (Y tế và Giáo dục) chưa được xác định rơ ràng, vấn đề bảo hiểm y tế học sinh chưa được cha mẹ học sinh và các nhà trường quan tâm, cơ sở vật chất nhà trường nói chung và cơ sở vật chất cho y tế trường học c̣n rất nghèo nàn. Những vấn đề này đă và đang là trở ngại cho việc nâng cao chất lượng và hiệu quả y tế trường học của từng địa phương và cả nước [47], [49], [51].
    Theo tài liệu vệ sinh học đường của Bộ Y tế năm 2002, y tế trường học gồm 5 nội dung là vệ sinh học đường, pḥng chống các bệnh truyền nhiễm, pḥng chống các bệnh thường gặp khác, nha học đường (chăm sóc vệ sinh răng miệng) và sơ cấp cứu ban đầu cho học sinh. Tuy nhiên việc thực hiện các nội dung này ở các trường học hiện nay c̣n chưa đồng nhất và nhiều bất cập [49], [51]. Đă có nhiều đề tài nghiên cứu về sức khỏe trường học, vệ sinh trường học của các tác giả như Trần Văn Dần [10], [11], [12], [14], Nguyễn Vơ Kỳ Anh [1], [2], Nguyễn Bích Diệp [18], [19], Đặng Anh Ngọc [37], [38], [39], Hoàng Văn Tiến [37], [38] nhưng nghiên cứu về các hoạt động YTTH cụ thể, những khó khăn trong quá tŕnh triển khai thỡ cũn chưa được đầy đủ [29].
    Chính v́ vậy, nghiên cứu một cách có hệ thống về hoạt động y tế trường học tại nước ta là một nhiệm vụ cần thiết, nú giỳp cho các nhà quản lư và hoạch định chính sách đẩy mạnh các hoạt động y tế trường học nhằm nâng cao sức khỏe cho học sinh trong thời gian tới. Nhiệm vụ này đó cú một đề tài khoa học công nghệ cấp Bộ “Nghiờn cứu thực trạng công tác y tế trường học ở Việt Nam hiện nay và đề xuất mô h́nh quản lư phù hợp” được thực hiện trong hai năm 2007 - 2009 tại ba tỉnh (Phú Thọ, Quảng B́nh, Đồng Nai) thuộc ba miền của đất nước.
    Huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ là một huyện miền núi của một tỉnh trung du Bắc Bộ. Cho tới nay, chưa có một nghiên cứu đầy đủ nào tại huyện về thực trạng hoạt động về y tế trường học ra sao, có những khó khăn nào ảnh hưởng tới hoạt động y tế trường học. V́ vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài ôNghiờn cứu thực trạng y tế trường phổ thông tại huyện Tam Nông tỉnh Phú Thọ năm học 2007-2008ằ, là một phần trong đề tài cấp Bộ, với các mục tiêu sau đây :
    1. Mô tả thực trạng hoạt động về y tế trường học tại các trường phổ thông tại huyện Tam Nông - tỉnh Phú Thọ trong năm học 2007 - 2008
    2. Mô tả một số khó khăn có ảnh hưởng đến hoạt động y tế trường học tại các trường phổ thông tại huyện Tam Nông - tỉnh Phú Thọ trong năm học 2007- 2008
    Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp can thiệp đẩy mạnh hoạt động YTTH tại huyện Tam Nông tỉnh Phú Thọ trong thời gian tới



    Chương 1
    TỔNG QUAN

    1.1. Tổng quan về y tế trường học
    1.1.1. Khái niệm về trường học nâng cao sức khỏe
    Theo Tổ chức y tế thế giới “Trường học nâng cao sức khỏe là trường học trong đó cả lời nói và việc làm đều có những hoạt động hỗ trợ và cam kết thúc đẩy sức khoẻ toàn diện cho tất cả mọi thành viên trong cộng đồng nhà trường từ t́nh cảm, xă hội, thể chất đến các vấn đề đạo đức” [6], [66]
    Cũng theo định nghĩa này, Tổ chức y tế thế giới đă đưa ra bốn nội dung hoạt động cơ bản của mô h́nh trường học NCSK. Các nội dung này liên quan và hỗ trợ lẫn nhau, đó là nâng cao hiệu quả giáo dục sức khỏe trong trường học, tổ chức các dịch vụ sức khỏe trong trường học, xây dựng cơ sở vật chất và môi trường trường học và thực hiện các chính sách nâng cao sức khỏe trường học [6], [65], [66]. Cụ thể các nội dung này như sau:
    - Nâng cao hiệu quả giáo dục sức khoẻ trong trường học
    + Lồng ghép giáo dục sức khoẻ vào trong các môn học chớnh khoỏ của bậc học, cấp học, ngành học.
    + Triển khai hoạt động truyền thông giáo dục sức khoẻ qua các hoạt động ngoại khoá, sinh hoạt tập thể, pano, áp phích, khẩu hiệu, tranh, ảnh Biểu dương khen thưởng kịp thời người tốt, việc tốt.
    + Tổ chức các hoạt động lồng ghép truyền thông giáo dục sức khoẻ giữa nhà trường, gia đ́nh và cộng đồng.
    - Tổ chức các dịch vụ sức khoẻ trường học
    + Khám và sơ cứu những trường hợp ốm đau hoặc tai nạn.
    + Khám sức khoẻ định kỳ để phát hiện sớm các trường hợp bị bệnh, lập hồ sơ theo dơi sức khoẻ học sinh. Đặc biệt cần quan tâm đến trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt (trẻ bị bỏ rơi, cô đơn, có vấn đề về tâm lư, hay bị đánh đập ) để có biện pháp chăm sóc giúp đỡ.
    + Triển khai các chương tŕnh chăm sóc sức khoẻ ban đầu (như chương tŕnh tiêm chủng mở rộng, pḥng chống giun sán, pḥng chống suy dinh dưỡng)
    + Thực hiện chương tŕnh nha học đường và giáo dục nha khoa, mắt học đường và giáo dục pḥng chống tật cận thị.
    + Có tủ thuốc, có thầy thuốc phục vụ thường xuyên tại pḥng sức khoẻ trường học (c̣n gọi là pḥng y tế nhà trường).
    + Tham gia bảo hiểm sức khoẻ học sinh.
    - Xây dựng cơ sở vật chất và môi trường cho trường học
    + Lớp học có trang thiết bị đúng quy cách.
    + Có sân chơi, băi tập, dụng cụ phương tiện luyện tập thể dục thể thao đảm bảo an toàn.
    + Có công tŕnh vệ sinh, nước sạch đảm bảo hợp vệ sinh.
    + Đảm bảo có đủ nước uống sạch.
    + Thu gom, xử lư rác và nước thải hàng ngày.
    + Trồng cây xanh ở sân, vườn trường.
    + Đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, nhất là các trường học nội trú, bán trú.
    - Thực hiện các chính sách nâng cao sức khoẻ trường học
    + Không hút thuốc lá, uống rượu bia, lạm dụng ma tuư và chất kích thích.
    + Không quan hệ t́nh dục sớm, lạm dụng t́nh dục.
    + Không có hành vi bạo lực: đe doạ, đánh đập, ức hiếp học sinh.
    + Không để xẩy ra các tai nạn thương tích đáng tiếc.
    + Tiến hành xă hội hoỏ cỏc hoạt động nâng cao sức khỏe trường học
    Các nội dung này đă được hoạt động ra sao tại các trường học ở Việt Nam đặc biệt là các trường học phổ thông tại huyện Tam Nông - tỉnh Phú Thọ năm học 2007 – 2008 là vấn đề cần được nghiên cứu.
    1.1.2. Các cơ sở để xây dựng trường học nâng cao sức khỏe ở Việt Nam [6], [7], [49]
    Tại Việt Nam có rất nhiều lư do để trường học cần phấn đấu trở thành trường học nâng cao sức khỏe, đó là:
    - Sức khoẻ của thế hệ trẻ là một nhân tố quyết định quan trọng có ảnh hưởng đến khả năng học tập, sáng tạo và phát triển năng khiếu của các em khi đang học ở trường cũng như tương lai sau này.
    - Học sinh là cầu nối hữu hiệu nhất giữa gia đ́nh với nhà trường và cộng đồng, nên nếu các em được chăm sóc, giáo dục sức khoẻ tốt sẽ ảnh hưởng tích cực tới mọi người trong toàn xă hội.
    - Việt Nam có số lượng học sinh đến trường cao. Trường học là nơi hầu hết học sinh có thể tiếp cận với công tác truyền thông giáo dục sức khoẻ.
    - Các điều kiện vệ sinh của phương tiện học tập, môi trường học đường có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến sức khoẻ của học sinh.
    - Đầu tư cho chương tŕnh y tế trường học sẽ là đầu tư có hiệu quả nhất để nâng cao sức khoẻ học sinh và giáo dục sức khoẻ cho cộng đồng.
    1.1.3. Các văn bản pháp lư về y tế trường học tại Việt Nam [47], [49], [51]
    Chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe trẻ em lứa tưổi trường học đă được Đảng, Chính phủ quan tâm. Nhiều công tŕnh nghiên cứu về sức khỏe học sinh của các tác giả đă được công bố. Tiêu chuẩn xây dựng trường lớp, tiêu chuẩn chiếu sáng, bàn ghế học tập đă được quy định trong điều lệ vệ sinh, bảo vệ sức khỏe từ năm 1964. Thông tư liờn bộ Y tế, Giáo dục số 32/ TTLB ngày 27/2/1964 đă hướng dẫn công tác vệ sinh trường học. Thông tư cũng đă quy định nhiệm vụ cho trạm y tế xă chăm lo sức khỏe học sinh trong trường học ở xă. Liên bộ cũng đă xây dựng thí điểm được trường Tán Thuật (Thái B́nh) trở thành lá cờ đầu về phong trào thể dục vệ sinh. [49]
    Trong thời ḱ chiến tranh phá hoại leo thang ra miền Bắc ngày càng ác liệt, các trường học phải sơ tán về nông thôn, miền núi. Bộ Y Tế đă tiến hành điều tra sức khỏe, bệnh tật của trên 20.000 học sinh ở 13 tỉnh thành phố trong 2 năm học 1966- 1967 và 1967-1968. Kết quả điều tra cho thấy thể lực của học sinh bị giảm sút, t́nh h́nh bệnh tật tăng. Trước t́nh h́nh đó, Chính phủ đă ban hành chỉ thị 46/TTG ngày 2/6/1969 giao trách nhiệm cho các ngành các cấp phối hợp thực hiện giữ ǵn và nâng cao sức khỏe học sinh, trong đó có quy định: Ngành Y tế phải coi học sinh là một trong những đối tượng phục vụ chính của ḿnh, phối hợp chặt chẽ với ngành Giáo dục tổ chức mạng lưới, bảo đảm thực hiện chế độ pḥng bệnh cho học sinh, giáo viên. [49]
    Năm 1973 có thông tư liên bộ 09/LB/YT-GD ngày 7/6/1973 hướng dẫn y tế trường học, trong đó có phân cấp việc khám chữa bệnh và quản lí sức khỏe học sinh từ tuyến y tế xă đến bệnh viện tỉnh, thành phố. Trong thời gian này công tác y tế trường học đă có nhiều chuyển biến và thu được kết quả tốt. Nhiều công tŕnh nghiên cứu về t́nh h́nh thể lực, bệnh tật, điều kiện học tập, giảng dạy, bàn ghế phù hợp với lứa tuổi, cải thiện chiếu sáng lớp học, thử nghiệm các chương tŕnh tài liệu giáo dục trong trường học đă được tiến hành. [49]
    Đến năm 1982 có thông tư liên bộ số 13/ LB - GD - YT. Ngày 9/ 6/ 1982 về việc đẩy mạnh công tác vệ sinh trường học. Nhưng tiếc rằng sau khi ban hành đă thiếu sự chỉ đạo thực hiện để phù hợp với t́nh h́nh mới của đất nước. [49]
    Cuối thập kỉ 80, với sự tài trợ của UNICEF, môn học giáo dục sức khỏe đă được thí điểm giảng dạy ở bậc tiểu học của một số trường thuộc các tỉnh tham gia dự án và đến năm 1996 môn học Giáo dục sức khỏe được coi là một trong 9 môn học bắt buộc ở bậc tiểu học và được triển khai đại trà trong cả nước. Với phương pháp dạy và học tích cực, lấy học sinh làm trọng tâm, môn học này đă có tác dụng góp phần bảo vệ, nâng cao sức khỏe học sinh. Với dự án vệ sinh môi trường và nước sạch trong trường tiểu học với sự tài trợ của UNICEF và của chương tŕnh quốc gia nước sạch - vệ sinh môi trường đă xây dựng hơn 6.000 công tŕnh vệ sinh (nhà tiêu) và giếng nước ở các trường tiểu học của cả nước. [49]
    Trong thời gian này cũng cú cỏc đợt điều tra về phát triển thể lực và sức khỏe học sinh. Các hội nghị khoa học về thể chất và sức khỏe trường học toàn ngành giáo dục và đào tạo đă được tổ chức 2 năm một lần và bộ Giáo dục và đào tạo đă xuất bản tuyển tập NCKH giáo dục thể chất và sức khỏe trong trường học các cấp (1996, 1998, 2000). Công tŕnh điều tra sức khỏe thế hệ trẻ Việt Nam và nhiều nghiên cứu sức khỏe lứa tuổi trường học đă được tiến hành. Thông tư số 23/TTLB-BYT-BGD&ĐT ngày 21/10/1987 liên Bộ Y tế-Giỏo dục đào tạo về công tác nha học đường [49]
    Năm 1997 Bộ Y Tế đă tổ chức nghiên cứu xây dựng mô h́nh tổ chức y tế trường học trong t́nh h́nh mới theo mă số đề tài khoa học cấp nhà nước theo mă số KHCN 11 - 06. Kết quả của đề tài đó giỳp cho việc đề xuất một số kiến nghị tập trung vào củng cố và phát triển mạng lưới y tế trường học, tăng cường các văn bản pháp lí chỉ đạo hướng dẫn các nội dung hoạt động trong những năm tới [51]
    Các văn bản, chỉ thị, quyết định được Bộ Y tế và Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành trong thời gian từ năm 1995 tới nay có liên quan tới y tế trường học là
    - Chỉ thị số 10/GD-DT ngày 30/6/1995 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc tăng cường pḥng, chống AIDS và các tệ nạn xă hội trong trường học.
    - Chỉ thị số 08/GD-DT ngày 12/5/1997 của Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo về việc tăng cường công tác vệ sinh trong trường học
    - Năm 1998 có thông tư liên bộ Giáo dục Đào tạo và Y tế số 40/ 1998/ TTLT- BGDĐT- BYT ngày 14/ 7/ 1998 có hướng dẫn thực hiện bảo hiểm y tế học sinh thay cho thông tư số 14/ TTLB ngày 19/ 9/1994 của liên bộ GDĐT – YT.
    - Thông tư số 03/TTLB-BYT-BGD&DT ngày 1/3/2000 liên Bộ Y tế - Giáo dục Đào tạo về việc hướng dẫn công tác y tế trường học
    - Quyết định số 1221/2000/QĐ-BYT ngày 18-4-2000 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc ban hành Qui định về vệ sinh trường học. Nội dung của bản quy định này bao gồm vệ sinh môi trường học tập, vệ sinh các phương tiện học tập cuả trường học, vệ sinh các nhà ở, nhà ăn các trường có học sinh nội trú, bán trú; quy định về kiểm tra, thanh tra xử lí những trường hợp vi phạm.
    - Quy chế giáo dục thể chất và y tế trường học bán hành theo quyết định số 14/ 2001/ QĐ-GDĐT ngày 3/5/2001 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo trên cơ sở các văn bản pháp quy hướng dẫn về y tế trường học được ban hành trong những năm đầu thế kỉ 21 này, hai ngành Y tế – Giáo dục và Đào tạo từ trung ương đến địa phương đă dẫn đến khôi phục và phát triển mạng lưới y tế trường học, triển khai các h́nh thức nâng cao sức khỏe học sinh.
    - Chỉ thị số 36/GD-DT ngày 10/8/2001 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc pḥng, chống hút thuốc lá trong trường học.
    - Chỉ thị số 53/2003/CT-BGD&ĐT ngày 13/11/2003 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về an toàn thực phẩm trong các cơ sở giáo dục và đào tạo
    - Chỉ thị số 54/2003/CT-BGD&ĐT ngày 24/11/2003 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc pḥng chống tai nạn thương tích trong các cơ sở giáo dục
    - Quyết định số 6728/QĐ-BGD&ĐT ngày 25/11/2005 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc ban hành Kế hoạch khẩn cấp của ngành Giáo dục về pḥng chống dịch cúm gia cầm (H5N1) và đại dịch cúm A (H5N1) ở người
    - Chỉ thị số 23/2006/CT-TTg ngày 12/7/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường công tác y tế trong các trường học
    1.2. Các nghiên cứu trên thế giới về y tế trường học
    Từ thế kỉ thứ 19 nhiều nước ở châu Âu đó cú những chủ trương và phương pháp thực hiện y tế trường học. Các nhà nghiên cứu tập trung vào việc thống kê xây dựng trường sở và bắt đầu đưa ra những tiêu chuẩn vệ sinh trong lĩnh vực này.
    Năm 1877 tác giả Babinski đă cho xuất bản cuốn sách giáo khoa về vệ sinh học, tác giả Breslauer, Herman Cohn từ năm 1864 đă nghiên cứu sự tăng nhanh bệnh cận thị trường học có liên quan đến chiếu sáng [49].
    Trong những năm cuối thế kỉ thứ 19 hệ thống y tế trường học đă phát triển và các bác sĩ, y tá trường học với nhiệm vụ khám sức khỏe định ḱ và khám chuyên khoa. Trọng tâm công tác y tế trường học là pḥng chống bệnh dịch và tổ chức quản lí công tác tiêm chủng.
    Đến thế kỉ 20 đó cú sự cộng tác chặt chẽ giữa bác sĩ trường học với các cơ sở pḥng lao và đă đánh dấu một bước tiến bộ theo đường lối dự pḥng.
    Từ năm 1960 người ta đă phát hiện ra hiện tượng gia tốc phát triển cơ thể trẻ em ở lứa tuổi trường học. Những công tŕnh nghiên cứu về sự mệt mỏi của trẻ em trong học tập đă được tŕnh bày tại hội nghị quốc tế ở Tây Ban Nha và sự thống nhất tổ chức y tế trường học và vệ sinh trường học cũng được đề cập tới. Những công tŕnh nghiên cứu về xây dựng trường sở, chiếu sáng và trang thiết bị đồ dùng học tập giảng dạy đặc biệt là những nghiên cứu về bàn ghế học sinh đă được chú trọng tới.
    Năm 1981 Vermer Kneist, viện vệ sinh xă hội Cộng Ḥa Dân Chủ Đức đă công bố mô h́nh xây dựng y tế trường học với nhiệm vụ của thầy thuốc trường học và mối liên quan của các tổ chức xă hội [49].
    Edith Ockel (1973) nghiên cứu về gánh nặng của trẻ em trong học tập và chỉ rơ những em có hiệu suất học tập thấp có sự diễn biến về huyết áp và tần số mạch khác với trẻ em trung b́nh và với trẻ em có hiệu suất học tập cao trong giờ học và đă đề xuất cải thiện chế độ học tập nhằm nâng cao hiệu suất trong học tập [49].
    Những nghiên cứu về sức chịu đựng về sinh lí của trẻ em trong luyện tập thể dục thể thao đă đưa ra những quy định chế độ luyờn tập riêng cho những học sinh bị bệnh măn tính như tim mạch, hô hấp .và giờ đây vệ sinh đă được đưa vào thành môn học chính khóa ở các trường phổ thông trên thế giới.
     
Đang tải...