Đồ Án Nghiên cứu, thiết kế hệ thống truyền lực và cơ cấu lái trên xe sinh thái tiết kiệm nhiên liệu ( có b

Thảo luận trong 'Cơ Khí' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    gồm 1 bản word 1 sile thuyết trình và bản vẽ .

    LỜI NÓI ĐẦU
    Cùng với sự phát triển không ngừng nghỉ của nền công nghiệp thế giới, đã làm cho lượng khoáng sản hóa thạch ngày càng cạn kiệt. Đi cùng với đó, lượng nhiên liệu cung cấp cho các ngành công nghiệp, đặc biệt là nhiên liệu cung cấp cho ngành ô tô-xe máy đang giảm đi trông thấy. Điều đó khiến cho giá cả của nhiên liệu mỗi lúc một leo thang không chỉ ở trên thế giới nói chung, còn ở Việt Nam nói riêng. Với tình hình đó đã đặt ra một bài toán,làm thế nào để giảm tối đa lượng nhiên liệu cần thiết cho quá trình sử dụng.
    Từ đó Honda đã tổ chức “Cuộc thi Lái xe sinh thái Tiết kiệm nhiên liệu” là sân chơi nơi những người tham gia sử dụng những ý tưởng và kỹ thuật cho động cơ xe máy Honda nhằm cạnh tranh về hiệu suất tiêu hao nhiên liệu với thử thách “Bạn có thể đi được bao nhiêu km chỉ với 1 lít xăng ?”
    Cuộc thi đã tạo ra cơ hội quý báu cho các bạn trẻ tư duy sáng tạo về kỹ thuật, công nghệ, đưa các ý tưởng này vào thực tế, và góp một phần không nhỏ vào việc đẩy mạnh phong trào tiết kiệm năng lượng và bảo vệ môi trường sống, qua đó thể hiện sự quan tâm của Honda vào quá trình phát triển các giá trị bền vững cho thế hệ tương lai.
    Thông qua đó, em đã được khoa giao cho đồ án tốt nghiệp:
    Nghiên cứu, thiết kế hệ thống truyền lực và cơ cấu lái trên xe sinh thái tiết kiệm nhiên liệu ”



    Chương 1: TỔNG QUAN ĐỀ TÀI1.1.Tính cấp thiết của đề tàiKhông phải vô cớ mà trong những năm gần đây, yếu tố môi trường luôn được nhắc đến và đòi hỏi sự đánh giá và quan tâm đúng mức. Hiệu ứng nhà kính, sự nóng lên của trái đất, khí hậu thay đổi thất thường, hệ sinh thái bị tổn thương, đa dạng sinh học suy giảm là những minh chứng rõ nét, phản ánh sinh động thực trạng mà môi trường, thiên nhiên và chính cả con người đang phải đối mặt. Và nằm trong số đó, không thể không kể đến nguy cơ cạn kiệt tài nguyên, cạn kiệt các nguồn năng lượng trên thế giới – một vấn đề nóng, một bài toán khó mà nếu không tìm được lời giải phù hợp thì hậu quả sẽ vô cùng nghiêm trọng. Trong đó các phương tiện giao thông đóng một vai trò lớn trong việc tiêu thụ các dạng năng lượng hóa thạch cũng như gây ra ô nhiễm môi trường như hiện nay.
    1.1.1. Thực trạng về các nguồn năng lượng hóa thạch hiện nay- Trên thế giới:
    Theo công bố của chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP), kể từ đầu những năm 1990 đến nay, sử dụng các nguồn tài nguyên đã tăng gần 50%, nhanh hơn rất nhiều so với tố độ tăng dân số thế giới. Một cuộc tìm hiểu khác của Quỹ thế giới về bảo vệ thiên nhiên (WWF) cũng cho thấy hiện nay con người tiêu thụ nhiều hơn 20% so với khả năng tạo ra nguồn tài nguyên mới của trái đất. Các nghiên cứu đều phác họa bức tranh không mấy lạc quan về hiện trạng cạn kiệt năng lượng trên thế giới, vẽ ra viễn cảnh u tối với những hậu quả được lường trước. Một cách so sánh vui, con người đang vay và sử dụng vốn từ thiên nhiên nhưng không nghĩ đến chuyện trả nợ cho nó.
    - Những năng lượng đang dần cạn kiệt trước sức ép của con người có thể kể ra như nước, dầu mỏ, khí đốt, than Dầu mỏ, sự suy giảm của nguồn năng lượng này đã được cảnh báo từ hàng chục năm qua chứ không phải mới gần đây. Công ty dầu khí nổi tiếng BP đã ước tính lượng dầu mỏ chỉ còn đủ dùng trong vòng 46 năm nữa nếu con người vẫn duy trì tốc độ sử dụng hiện tại. Cũng cùng hoàn cảnh đó, tuổi thọ của khí gas trong tự nhiên chỉ kéo dài 58 năm nữa. Than luôn được coi là vàng đen nhưng với mức độ khai thác quá mức như hiện tại, khoảng 188 năm nữa thế giới sẽ không còn than để sử dụng. Lấy dẫn chứng ở các quốc gia trên thế giới, nếu như Nga đang đứng đầu thế giới với hơn 7% trữ lượng khí tự nhiên, đứng thứ hai với 10% trữ lượng dầu mỏ và là nguồn cung cấp than quan trọng với 20% trữ lượng nhưng chỉ khoảng 20-30 năm nữa theo nghiên cứu, những tỷ lệ vàng này sẽ chẳng còn bao nhiêu bởi tỷ lệ khai thác dầu, khí đốt của Nga đã vượt quá 60% trong khi việc tìm kiếm những mỏ mới thay thế ngày càng khó. Thực tế cho thấy, 50 năm qua việc phát hiện những mỏ mới giảm 10 lần Đối với các nước Trung Đông, nếu dầu mỏ và khí đốt từng là con át chủ bài, mang lại sự thịnh vượng cho khu vực thì hiện nay, các mỏ dầu cũng đang trong tình trạng ngày càng khó khai thác vì đã khai thác quá lâu, từ hơn nửa thế kỷ qua. Một báo cáo mới đây của Cơ quan năng lượng quốc tế (IEA) kết luận: sản lượng dầu lửa toàn cầu rất có thể đạt 96 triệu thùng/ngày vào năm 2012, nhưng khó vượt qua con số này vì rất ít những giếng dầu mới được phát hiện.
    Những sự khan hiếm, cạn kiệt kể trên là tình hình chung của rất nhiều loại năng lượng, tài nguyên khác. Trước sức ép từ sự sử dụng quá mức của 7 tỷ dân số thế giới, sự phát triển của khoa học công nghệ, thực trạng công nghiệp, đô thị hóa và chủ nghĩa tiêu dùng gia tăng mạnh mẽ, thời đại hoàng kim năng lượng của các quốc gia sẽ nhanh chóng biến mất. Và lời giải cho vấn đề mang tính thách đố này thuộc về chúng ta.
    - Thực trạng tiêu thụ xăng ở Việt Nam:
    Theo Sở Giao thông Vận tải TPHCM, bất chấp những khó khăn về kinh tế, số lượng phương tiệ giao thông đăng ký mới trên địa bàn TP tiếp tục tăng mạnh. Trong tháng 5-2012 TnPHCM có 20.862 phương tiện giao thông đăng ký mới, trong đó có 1.221 ô tô và 19.641 mô tô. Tính đến tháng 5-2012 trên toàn địa bàn TP có 5.715.798 phương tiện giao thông với 509.106 ô tô và 5.206.692 mô tô, tăng 10,42% so với cùng kỳ năm 2011.
    Nếu cho rằng trung bình một ngày, mỗi mô tô chỉ sử dụng khoảng 0,5 lít xăng và mỗi ô tô sử dụng 1 lít xăng thì TP đã dùng hơn 3 triệu lượng từ hóa thạch ở Việt Nam nói riêng và trên toàn thế giới nói chung đang dần cạn lít xăng. Một mức tiêu xài khổng lồ trong bối cảnh kinh tế khó khăn và các nguồn năng kiệt.
    1.1.2. Sức ép về ô nhiễm môi trường
    Đối với con người:
    - Khói thải từ các phương tiện giao thông đang dần hủy diệt sức khỏe con người. Ở nước Anh, người ta thống kê được rằng, số người chết vì ô nhiễm không khí trên đường phố cao gấp hai lần số người chết vì tai nạn giao thông. Tất nhiên, Việt Nam khác Anh và chưa có cơ quan nào so sánh số người chết vì tai nạn giao thông với số người chết vì ô nhiễm môi trường trên đường phố song với sự gia tăng các phương tiện giao thông như hiện nay, chắc chắn số người bị ảnh hưởng tiêu cực do ô nhiễm môi trường trên đường phố, không nhỏ.
    Theo Trung tâm Quan trắc môi trường Việt Nam, hoạt động giao thông tạo ra 85% lượng khí CO (một loại khí không màu, gây ngạt thở, nhói ở mũi, cổ họng), 95% lượng VOCs (các chất hữu cơ bay hơi có thể gây khô da, ảnh hưởng xấu đến hệ tuần hoàn, tiêu hóa, gan thận) và các loại khí độc hại khác.
    Biểu hiện rõ nhất về độ bẩn của không khí là lượng bụi hạt lơ lửng. Mật độ PM10 ở các nút giao thông của các TP lớn luôn vượt mức cho phép. PM10 là hạt bụi có kích thước nhỏ hơn 10 micromet, thường do xe môtô, nhà máy điện thải ra trực tiếp. Loại bụi siêu nhỏ này dễ dàng xâm nhập vào phổi, mạch máu và gây ra các bệnh như tim, ung thư phổi, hen và nhiễm khuẩn đường hô hấp. Đáng lo ngại, khí thải từ hoạt động giao thông vận tải góp tới 70% tổng lượng khí thải gây ô nhiễm môi trường, nếu tính chung trên cả nước.
    · Một số ảnh hưởng cụ thể của các chất chứa trong khí xả phương tiện giao thông mang đến cho con người
    + Tác hại của SO2 và NOX
    - SO2, NOX là chất kích thích, khi tiếp xúc với niêm mạc ẩm ướt tạo thành axít (HNO3, H2SO3, H2SO4). Các chất khí trên vào cơ thể qua đường hô hấp hoặc hòa tan vào nước bọt rồi vào đường tiêu hoá, sau đó phân tán vào máu tuần hoàn.
    - Kết hợp với bụi => bụi lơ lửng có tính axít, kích thước < 2-3µm sẽ vào tới phế nang, bị đại thực bào phá hủy hoặc đưa đến hệ thống bạch huyết.
    - SO2 nhiễm độc qua da làm giảm dự trữ kiềm trong máu, đào thải amoniac ra nước tiểu và kiềm ra nước bọt.
    - Độc tính chung của SO2 thể hiện ở rối loạn chuyển hóa protein và đường, thiếu vitamin B và C, ức chế enzym oxydaza.
    - Giới hạn phát hiện thấy bằng mũi SO2 từ 8 – 13 mg/m3.
    - Giới hạn gây độc tính của SO2 là 20 – 30 mg/m3, giới hạn gây kích thích hô hấp, ho là 50mg/m3.
    - Giới hạn gây nguy hiểm sau khi hít thở 30 – 60 phút là từ 130 đến 260mg/m3
    - Giới hạn gây tử vong nhanh (30’ – 1h) là 1.000-1.300mg/m3.
    - Tiêu chuẩn cho phép của Bộ Y Tế Việt Nam đối với SO2, SO3, NO2 týõng ứng là 0,5; 0,3 và 0,085 mg/m3 (nồng độ tối đa 1 lần nhiễm).
    + Tác hại của CO
    -Ôxít cacbon (CO) kết hợp với hemoglobin (Hb) trong máu thành hợp chất bền vững là cacboxy hemoglobin (HbCO) làm cho máu giảm khả năng vận chuyển ôxy dẫn đến thiếu ôxy trong máu rồi thiếu ôxy ở các tổ chức.
    + Tác hại của HYDROCACBON
    - Hơi dầu có chứa các chất hydrocacbon nhẹ như metan, propan, butan, sunfua hydro.
    - Giới hạn nhiễm độc của các khí như sau:
    Metan 60-95 %
    Propan 10 %
    Butan 30 %
    Sulfua hydro 10 ppm
    - Tiêu chuẩn của Bộ Y Tế Việt Nam năm 1977 qui định tại nơi lao động: dầu xăng nhiên liệu là 100mg/m3, dầu hỏa là 300mg/m3. TCVN 5938-2005 qui định nồng độ xăng dầu trong không khí xung quanh tối đa trong 1 giờ là 5mg/m3.
    - Nồng độ hơi xăng, dầu từ 45% (thể tích) trở lên sẽ gây ngạt thở do thiếu ôxy. Triệu chứng nhiễm độc như say, co giật, ngạt, viêm phổi, áp xe phổi.
    - Dầu xăng ở nồng độ trên 40.000 mg/m3 có thể bị tai biến cấp tính với các triệu chứng như tức ngực, chóng mặt, rối loạn giác quan, tâm thần, nhức đầu, buồn nôn, ở nồng độ trên 60.000 mg/m3 sẽ xuất hiện các cơn co giật, rối loạn tim và hô hấp, thậm chí gây tử vong.
    - Người nhạy cảm xăng dầu: tác động trực tiếp lên da (ghẻ, ban đỏ, eczema, bệnh nốt dầu, ung thư da).
    - Các hydrocacbon mạch thẳng như dung môi naphta; các hydrocacbon mạch vòng như cyclohexan; các hydrocacbon mạch vòng thơm như benzen, toluen, xylen; các dẫn xuất của hydrocacbon như cyclohexanol, butanol, axeton, etyl acetat, butyl acetat, metyletyl xeton (MEK) và các dẫn xuất halogen.
    - Các hợp chất hữu cơ bay hơi (THC): Dưới ánh sáng mặt trời, các THC với NOx tạo thành ozon hoặc những chất oxy hóa mạnh khác. Các chất này có hại tới sức khỏe (rối loạn hô hấp, đau đầu, nhức mắt), gây hại cho cây cối và vật liệu.
    * Ảnh hưởng của ô nhiễm không khí đối với động thực vật
    - Ô nhiễm không khí gây ảnh hưởng tai hại cho tất cả sinh vật.
    - Thực vật rất nhạy cảm đối với ô nhiễm không khí.
    - SO2, NO2, ozon, fluor, chì gây hại trực tiếp cho thực vật khi đi vào khí khổng, làm hư hại hệ thống giảm thoát nước và giảm khả năng kháng bệnh.
    - Ngăn cản sự quang hợp và tăng trưởng của thực vật; giảm sự hấp thu thức ăn, làm lá vàng và rụng sớm.
    - Đa số cây ăn quả rất nhạy đối với HF. Khi tiếp xúc với nồng độ HF lớn hơn 0,002 mg/m3 thì lá cây bị cháy đốm, rụng lá.
    - Mưa acid còn tác động gián tiếp lên thực vật và làm cây thiếu thức ăn như Ca và giết chết các vi sinh vật đất. Nó làm ion Al được giải phóng vào nước làm hại rễ cây (lông hút) và làm giảm hấp thu thức ăn và nước.
    - Ðối với động vật, nhất là vật nuôi, thì fluor gây nhiều tai họa hơn cả. Chúng bị nhiễm độc do hít trực tiếp và qua chuỗi thức ăn.
    1.1.3. Ảnh hưởng toàn cầu của ô nhiễm không khí
    - Mưa axit
    - Hiệu ứng nhà kính
    - Sự suy giảm ôzôn
    - Biến đổi nhiệt độ
    Với tình hình như vậy, công việc nghiên cứu và cải tiến làm sao cho xe hoạt động một cách hiệu quả và tiết kiệm nhiên liệu nhất là vô cùng phức tạp và khó khăn. Vì vậy, đòi hỏi người kỹ thuật viên phải có trình độ hiểu biết, học hỏi sáng tạo để bắt kịp với khoa học tiên tiến hiện đại, nắm bắt được những thay đổi về đặc tính kĩ thuật của từng loại xe,dòng xe,đời xe để có thể nghiên cứu sâu sắc nhất và đưa ra các phương án cải tiến tối ưu nhất để làm giảm lượng tiêu hao nhiên liệu cho động cơ được hiệu quả cao nhất.
    1.2. Ý nghĩa của đề tài chế tạo xe sinh thái tiết kiệm nhiên liệu
    - Ngày nay các phương tiện giao thông đang dần chuyển từ sử dụng năng lượng hóa thạch sang sử dụng các loại năng lượng tái tạo được, xong bên cạnh đó năng lượng hóa thạch vẫn đóng một vai trò hết sức to lớn trong ngành giao thông vận tải của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Vì vậy việc nghiên cứu chế tạo một chiếc xe giúp sử dung tiết kiệm các nguồn năng lượng hóa thạch vẫn mang ý nghĩa hết sức to lớn nhất là trong giai đoạn giá cả xăng dầu ngày càng leo thang do các nguồn năng lượng này đang dần cạn kiệt và tình trang ô nhiễm môi trường đang là vấn đề nan giải của toàn thế giới.
    * Ý nghĩa cộng đồng:
    Việc sử dụng xăng dầu trong vấn đè đi lại hằng ngày hay vận chuyển hang hóa đã và đang là vấn đề không thể tách rời với công việc sinh hoạt hàng ngày và sản xuất trong đời sống. Xong cũng chính vì vậy mà những phuong tiện giao thông đó cùng với việc khai thác của con người ngày càng làm môi trường sống của chúng ta trở lên tồi tệ. Con người đang phải đối diện với các căn bệnh hiểm ác như ung thư, viêm phổi . do trưc tiếp các sản phẩm độc hại của khí xả động cơ các phương tiện thải vào không khí. Con người còn phải hứng chịu những cơn mua a xít mà nguyên nhân do các chất trong khí xả tạo nên và chúng đã gây nên các căn bệnh như ung thư da, ô nhiễm nguồn nước, phá hủy các công trình và ăn mòn nhung thiết bị bằng kim loại. việc suy giảm tằng ô zôn và hiệu ứng nhà kính làm trái đất nóng lên cũng đang ở tình trạng hết sức báo động. Vì vậy một chiếc xe tiêu thụ ít nhiên liêu hơn sẽ góp phần cùng nhiều triệu chiếc xe khác bảo vệ môi trường sống cho toàn cộng đồng của chúng ta, hạn chế phát sinh các bệnh tật do khí thải trong động cơ mang đến.
    Ngoài ra việc tiết kiệm nhiên liệu cũng làm giảm sức ép lên nguồn tài nguyên thiên nhiên đang dần cạn kiệt này và để lại cho thế hệ tương lai
    * Ý nghĩa đối với cá nhân
    Tiết kiệm nhiên liệu ảnh hưởng đến mỗi cá nhân chúng ta. Ngoài việc được hưởng các lợi ích nằm trong các lợi ích của cộng đồng ra thì ý nghĩa thiết thực nhất của việc tiết kiệm nhiên liệu là tiền hàng tháng dành cho chi phí xăng dầu dùng trong đi lại và vận chuyển sẽ giảm xuống ảnh hưởng trục tiếp đến túi tiền của mỗi chúng ta.
    * Kết luận: Việc chế tạo một chiếc xe tiết kiệm nhiên liệu mang một ý nghĩa vô cùng to lớn đối với toàn thế giới nói chung và mỗi cá nhân nói riêng.
    * Ý nghĩa đối với sinh viên thực hiên:
    -Nâng cao tư duy sáng tạo về kỹ thuật, công nghệ, đưa các ý tưởng này vào thực tế, và góp một phần không nhỏ vào việc đẩy mạnh phong trào tiết kiệm năng lượng và bảo vệ môi trường sống.
    - Đề tài giúp sinh viên củng cố, tổng hợp và nâng cao kiến thức chuyên ngành trong học tập cũng như ngoài thực tế xã hội.
    - Đề tài:“Nghiên cứu, thiết kế hệ thống truyền lực và cơ cấu lái trên xe sinh thái tiết kiệm nhiên liệu ” giúp em sau này ra trường có thêm nhiều kiến thức và tăng khả năng tư duy, nghiên cứu vận dụng vào thực tế.
    1.3. Mục tiêu của việc nghiên cứu chế tạo xe sinh thái tiết kiệm nhiên liệuMục tiêu đặt ra của nhóm:
    -Nghiên cứu, đi sâu vào đặc tính của động cơ xe wave 110cc.
    -Tham khảo tài liệu chuyên ngành và các tài liệu liên quan, và các phần mềm dùng trong tính toàn thiết kế kĩ thuật như catia, solit word để từ đó tính toán thiết kế được bộ khung và hình dạng vỏ xe để có thể tối ưu nhất. Như đảm bảo điều kiện bền cho xe, lực cản gió nhỏ nhất và lực quán tính lớn nhất
    - Lựa chọn các vật liệu tối ưu để chế tạo như ổ bi, sắt đê chế tạo khung
    - Tác động vào động cơ như hệ thống cung cấp nhiên liêu, hệ thống đánh lửa
    - Mục đích cuối cùng cần đạt được là chế tạo thành công chiếc xe tiết kiệm nhất và với giá thành sản phẩm rẻ nhất.
    1.4. Phương pháp nghiên cứu1.4.1. Phương pháp nghiên cứu và cải tiến thực tiễn* Trong phương pháp này chúng ta phải các bước sau
    - Bước 1: Quan sát, tìm hiểu các thông số kết cấu, nguyên lý hoạt động của hệ thống lái, hệ thống truyền lực trên các xe thực tế.
    - Bước 2: Đưa ra các phương án thiết kế và phân tích và thử nghiệm trực tiếp trên trên xe sinh thái tiết kiệm nhiên liệu.
    - Bước 3: Từ kết quả thử nghiệm chọn được các phương án tối ưu nhất để sử dụng trên xe sinh thái tiết kiệm nhiên liệu.
    1.4.2. Phương pháp nghiên cứu và cải tiến dựa trên tài liệu- Phương pháp được thực hiện khi chúng ta đã thu thập một số lượng tài liệu tham khảo cũng như những đề tài có liên quan và được thực hiện trước đó.
    * Mục đích : Nghiên cứu, tham khảo, tìm hiểu các thông tin khoa học trên cơ sở nghiên cứu các văn bản, tài liệu, sách báo đã có sẵn bằng tư duy logic để rút ra kết luận cần thiết
    * Phân loại tài liệu nghiên cứu:
    - Tài liệu sơ cấp : Là tài liệu mà người nghiên cứu thu thập, phỏng vấn trực tiếp, thu thập số liệu và tài liệu nghiên cứu chưa qua phân tích, thảo luận .
    - Tài liệu thứ cấp : Là tài liệu có nguồn gốc từ tài liệu sơ cấp đã được phân tích, thảoluận và diễn giải như : Sách giáo khoa, báo chí và các giáo trình Các tài liệu này đã được giải thích và phân tích dựa trên thực tiễn và lý thuyết một cách chính xác.
    * Các bước thực hiện:
    - Bước 1: Thu thập tìm tòi các tài liệu viết về cơ cấu lái và hệ thống truyền lực trên xe sinh thái tiết kiệm nhiên liệu.
    - Bước 2: Sắp xếp các tài liệu khoa học thành một hệ thống logic,chặt chẽ theo
    từng bước, từng đơn vị kiến thức, từng vấn đề khoa học có cơ sở và bản chất nhất định .
    - Bước 3: Đọc, nghiên cứu và phân tích các tài liệu nói về cơ cấu lái và hệ thống truyền lực trên xe sinh thái tiết kiệm nhiên liệu, dựa trên các kiến thức đã được học trong trường và kiến thức từ thực tế: Phân tích kết cấu, nguyên lý làm việc một cách khoa học .
    - Bước 4: Tổng hợp kết quả đã phân tích và nghiên cứu được, hệ thống hóa lại những kiến thức đã nắm được để cải tiến trược tiếp trên cơ cấu lái và hệ thống truyền lực trên xe sinh thái tiết kiệm nhiên liệu.
    1.4.3. Phương pháp thống kê mô tảLà phương pháp tổng hợp kết quả nghiên cứu thực tiễn và nghiên cứu để đưa ra kết quả chính xác và khoa học. * Các bước thực hiện:
    - Bước 1:Thống kê ra các bộ phận cấu tạo nên cơ cấu lái và hệ thống truyền lực trên xe sinh thái tiết kiệm nhiên liệu một cách chi tiết sau đó mô tả kết cấu của từng bộ phận đó và nguyên lý hoạt động của từng bộ phận .
    - Bước 2: Phân tích và giải thích kết cấu từng bộ phận trong hệ thống cung cấp nhiên liệu động cơ Honda 110 cm3 trên xe sinh thái tiết kiệm nhiên liệu từ đó rút ra nguyên lý làm việc của từng bộ phận, thông qua đó rút ra các cách nhằm cải tiến hệ thống.
    1.4.4.Ứng dụng phần mềm vào trông quá trình thiết kế tính toán:Trong quá trình tính toán và thiết kế nhóm nghiên cứu đã ứng dụng những phần mềm giúp đỡ tính toán thiết kế mạnh và hay được sử dụng trong các ngành kĩ thuật như Catia, Solit word việc ứng dụng phần mềm dã giúp cho nhóm đồ án có thể thử nghiệm, tính bền, mô phỏng hoạt động của xe tương đối sát với thực tế làm cho quá trình chế tạo trên thực tế gặp ít khó khăn hơn.
    1.4.5. Hạn chế nghiên cứu và cải tiếnTrong quá trình nghiên cứu và cải tiến còn nhiều hạn chế:
    -Tài liệu tham khảo còn hạn chế.
    -Trang thiết bị dùng cho việc nghiên cứu còn hạn hẹp.
    -Thời gian và kinh phí còn hạn hẹp.
    1.5. Giới thiệu về “cuộc thi lái xe sinh thái, tiết kiệm nhiên liệu” năm 2013 và xe sinh thái tiết kiệm nhiên liệu do đội UTEHY CKĐL 3 chế tạo* Giới thiệu về cuộc thi lái xe sinh thái, tiết kiệm nhiên liệu năm 2013
    Được khởi nguồn từ Honda Nhật Bản vào năm 1981, tính đến nay, cuộc thi “Lái xe sinh thái Tiết kiệm nhiên liệu Honda” (EMC) đã trải qua quãng đường 33 năm. Cuộc thi là một sân chơi cạnh tranh lành mạnh với mục đích nâng cao niềm vui sáng tạo trong làm việc nhóm, cũng như ý thức bảo vệ môi trường cho giới trẻ. Tại Việt Nam, cuộc thi bắt đầu khởi động lần đầu tiên vào năm 2010 và năm nay là năm thứ 4 liên tiếp cuộc thi được tổ chức và nhận được sự tham gia nhiệt tình, đặc biệt là các bạn trẻ là sinh viên của các trường đại học trên cả nước. Tương tự như các nước khác, tại Việt Nam các đội tham gia cũng sẽ chế tạo xe sử dụng động cơ Honda nhằm tối đa hóa khả năng tiết kiệm nhiên liệu.
    EMC năm 2012 ở Việt Nam đã ghi nhận sự tham gia của 78 đội trong một cuộc đua tranh tài hấp dẫn và đầy hồi hộp. Kỷ lục được xác lập là 912,66 km/l bởi đội Cánh gió. Thành tích tốt nhất của đội sinh viên là 389,259 km/l thuộc về đội TDU2 – Đại học Thành Đô. Cả 2 đội trên đều tham gia thi đấu tại cuộc thi EMC 2012 ở Nhật Bản với thành tích khá tốt.
    Cuộc thi EMC lần thứ tư tại Việt Nam đã được Công ty Honda Việt Nam phát động vào ngày 05/11/2012. Cuộc thi năm nay thu hút 97 đội tham gia trên khắp cả nước, bao gồm 82 đội thi nội dung xe tự chế và 15 đội thi nội dung xe thị trường. Đặc biệt, năm nay số đội đến từ các trường đại học công nghệ hàng đầu trên cả nước tăng lên đáng kể, tổng số là 58 đội.
    Khác với cuộc thi các năm trước, cuộc thi năm nay được chia làm 4 nhóm thi bao gồm:
    Nhóm 1: Nhóm xe tự chế dành cho học sinh, sinh viên
    Nhóm 2: Nhóm xe tự chế dành cho các công ty, cá nhân
    Nhóm 3: Nhóm xe tự chế dành cho Honda Việt Nam
    Nhóm 4: Nhóm xe thị trường
    Giải thưởng được trao dựa trên thành tích tiết kiệm nhiên liệu từ các đội hoàn thành vòng thi chính thức. Số giải thưởng ở mỗi nhóm như sau:
    Nhóm 1: từ hạng 1 tới hạng 5
    Nhóm 2: từ hạng 1 tới hạng 3
    Nhóm 3: từ hạng 1 tới hạng 2
    Nhóm 4: từ hạng 1 tới hạng 3
    Với thách thức “Bạn có thể đi được bao nhiên km với 1 lít xăng?”, “Lái xe sinh thái – Tiết kiệm nhiên liệu Honda” là cuộc thi về hiệu suất tiêu hao nhiên liệu dành cho tất cả mọi người say mê kỹ thuật và sáng tạo. EMC là cơ hội để thể hiện những ý tưởng thông minh, những phát minh công nghệ đặc biệt để làm sao đạt được hiệu suất tiêu hao nhiên liệu một cách tối ưu. Quá trình thực hiện là cơ hội trải nghiệm niềm vui sáng tạo, tinh thần chấp nhận thử thách, thông qua đó nâng cao ý thức tiết kiệm nhiên liệu, bảo vệ môi trường. Đó cũng chính là mục tiêu của Honda Việt Nam khi tổ chức cuộc thi này.
    * Giới thiệu về xe do đội UTEHY CKĐL 3 chế tạo:
    Xe sinh thái tiết kiệm nhiên liệu do đội UTEHY CKĐL 3 chế tạo sử dụng động cơ HonDa wave 110 c do công ty HONDA Việt Nam sản xuất và hệ thống khung, hệ thống truyền lực, cơ cấu treo, lái do nhóm sinh viên nghiên cứu và thầy giáo hướng dẫn chịu trách nhiệm nghiên cứu chế tạo và thử nghiệm trên thực tiễn. Xe của nhóm được phát triển dựa trên tiêu chí: “ An toàn nhất – Tiết kiệm nhất – Giá thành chế tạo rẻ nhất”.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...