Tiến Sĩ Nghiên cứu sử dụng một số phụ phế phẩm công nông nghiệp và xây dựng khẩu phần ăn cho bò sữa dựa trên

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 24/11/13.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Luận án tiến sĩ
    Đề tài: Nghiên cứu sử dụng một số phụ phế phẩm công nông nghiệp và xây dựng khẩu phần ăn cho bò sữa dựa trên nguồn thức ăn sẵn có ở một số tỉnh phía Nam

    MỤC LỤC
    Tiêu đề Trang
    PHẦN MỞ ĐẦU 1
    1. Tình hình phát triển chăn nuôi bò sữa ở phíaNam 1
    2. Tính cấp thiết của đề tài 2
    3. Mục tiêu của đề tài 5
    4. Đối tượng nghiên cứu 5
    5. Những đóng góp mới của đề tài 6
    Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 7
    1.1. Sử dụng phụ phế phẩm trong chăn nuôi bò sữa 7
    1.1.1. Định nghĩa và phân loại phụ phế phẩm 8
    1.1.2. Đặc điểm dinh dưỡng các loại phụ phế phẩm 10
    1.2. Tiêu hóa dạ cỏ và ứng dụng trong việc sử dụng phụ phế phẩm 20
    1.2.1. Đặc điểm giải phẩu, hệ vi sinh vật và môi trường dạ cỏ 21
    1.2.2. Sự tiêu hoá các chất tinh bột,đường và chất béo 30
    1.2.3. Tiêu hoá protein và hàm lượng NH3dịch dạ cỏ 31
    1.2.4. Tiêu hoá chất xơ và biện pháp để nâng cao tiêu hoá xơ 34
    1.3. Xử lý rơm lúa và sử dụng bánh dinh dưỡng 37
    1.3.1. Các biện pháp xử lý rơm lúa 37
    1.3.2. Sử dụng bánh dinh dưỡng cho bò sữa 40
    6
    Chương 2: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNGPHÁP NGHIÊN CỨU 42
    2.1. Nội dung nghiên cứu 42
    2.1.1. Xác định giá trị dinh dưỡng của một số phụ phế phẩm và
    đánh giá đặc điểm khẩu phần ăn của bò sữa ở khu vực TP. HCM 43
    2.1.2. Nghiên cứu sử dụng rơm ủ urê và bánh dinh dưỡng
    trong khẩu phần ăn của bò sữa 45
    2.1.3. Nghiên cứu cải tiến khẩu phần và phương pháp đơn giản
    để xây dựng khẩu phần ăn cho bò sữa 51
    2.2. Phương pháp nghiên cứu 57
    Chương 3: KẾT QỦA VÀ THẢO LUẬN 68
    3.1. Giá trị dinh dưỡng của mộtsố phụ phế phẩm và đặc điểm
    khẩu phần ăn của bò sữa ở khu vực TP.HCM 68
    3.1.1. Giá trị dinh dưỡng của phụphế phẩm chính trong khẩu phần
    ăn của bò sữa 68
    3.1.2. Đặc điểm khẩu phần ăn của bò sữa dựa trên
    nguồn phụ phế phẩm ở khu vực TP. HCM 78
    3.2. Kết quả nghiên cứu sử dụng rơm ủ urê và
    bánh dinh dưỡng trong khẩu phần bò sữa 84
    3.2.1. Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của rơm ủ urê
    và bánh dinh dưỡng 84
    7
    3.2.2. Aûnh hưởng của khẩu phần có sử dụng rơm ủ urê và bánh dinh
    dưỡng đến một số chỉ tiêu dạ cỏ và khả năng phân giải thức ăn 93
    3.2.3. Aûnh hưởng của rơm ủ urê và bánh dinh dưỡng đến một số chỉ tiêu
    sản xuất và sinh sản củabò sữa 102
    3.3. Kết quả nghiên cứu cải tiến khẩu phần và lập bảng phối hợp
    thức ăn để xây dựng khẩu phần ăn cho bò sữa 109
    3.3.1. Aûnh hưởng của khẩu phần có tỷ lệ tinh/thô khác nhau
    đến pH dịch dạ cỏ và khả năng phân giải thức ăn 109
    3.3.3. Phương pháp đơn giản xây dựng khẩu phần cho bò sữa
    dựa trên gnuồn thức ăn sẵncó 125
    3.3.2. Kết quả cải tiến khẩu phần ăn cho bò sữa 113
    Chương 4: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 128
    4.1. Kết luận 128
    4.2. Đề nghị 130
    TÀI LIỆU THAM KHẢO 131
    NHỮNG CÔNG TRÌNH CÓ LIÊN QUAN 146
    PHẦN PHỤ LỤC 147

    PHẦN MỞ ĐẦU
    1. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN CHĂN NUÔI BÒ SỮA Ở PHÍA NAM
    Sản xuất sữa ở các nước nhiệt đới đã và đang gia tăng với tốc độ 2,8%
    năm. Trong khi đó, nhu cầu về tiêu thụ sữa tăng 3,6% năm (Chamberlain,
    1989) [24]. Như vậy, ở các nước đang phát triển có nhiều cơ hội để phát triển
    ngành sản xuất sữa. Tuy nhiên, so với các nước ôn đới và kể cả các nước
    trong khu vực, sản xuất và tiêu thụ sữa ở Việt Nam còn đang ở mức rất thấp.
    Năm 1997, lượng sữa tươi sản xuất được 31,27 triệu lít, đạt khoảng 0,41
    lít/người. Tốc độ gia tăng sản xuất sữa ở nước ta chỉ đạt 19,26% năm (Lê Bá
    Lịch, 1998) [49].
    Sau những thành công trên lĩnh vực sản xuất lúa gạo, Nhà nước Việt
    Nam đã có chủ trương phát triển nguồn thực phẩm cho nhân dân mà trong đó
    sản xuất sữa trong nước là một hướng được ưu tiên trong chương trình khuyến
    nông. Nhà nước đã thành lập các Trung tâm chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi
    bò sữa, các trạm gieo tinh nhân tạo,chương trình cho vay vốn chăn nuôi bò
    sữa . để đạt được mục tiêu 4 lít sữa/người/ năm vào năm 2000 (Cục Khuyến
    nông và Khuyến lâm, 1997) [7].
    Xuất phát từ tình hình trên, phong trào chăn nuôi bò sữa đã thật sự phát
    triển mạnh mẽ trong những năm vừa qua. Tuy nhiên, yêu cầu của chăn nuôi
    bò sữa là phải gắn liền với nơi chế biến. Vì thế, ở khu vực phía Nam, đàn bò
    15
    sữa chỉ phát triển ở Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh lân cận. Đã có
    những lúc phong trào nuôi bò sữa rộ lên ở Lâm Đồng, Khánh Hòa . nhưng
    do không giải quyết được vấn đề “đầu ra” nên việc phát triển chăn nuôi bò
    sữa đã phải dừng lại. Riêng ở Thành phố Hồ Chí Minh, quá trình đô thị hóa
    đã làm cho đàn bò sữa phải dịch chuyển ra một số huyện ngoại thành như
    Hóc Môn, Thủ Đức, Bình Chánh . và đã bắt đầu xuất hiện ở một số tỉnh lân
    cận như Đồng Nai, Bình Dương, Long An . Sau năm 1995, với sự ra đời của
    công ty liên doanh sữa VIETNAM - FOREMOST tại tỉnh Bình Dương và sự
    phát triển về khả năng thu mua sữa tươi (thành lập thêm nhiều điểm trung
    chuyển) của công ty VINAMILK, số lượng bò sữa đã thật sự gia tăng một
    cách đáng kể.
    2. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
    Từ trước đến nay đã và đang tồn tại sự khác biệt rất đặc trưng
    trong chăn nuôi bò sữa giữa các nước phát triển và các nước đang
    phát triển, đặc biệt là các nước nhiệt đới. Chăn nuôi bò sữa ở các
    nước phát triển theo hai phương thức chính: (i) hoặc thâm canh cao:
    bò sữa được nhốt tại chuồng, thức ăn, cơ sở hạ tầng được đầu tư tối đa
    cả về số lượng lẫn chất lượng. Phương thức này đòi hỏi con giống
    phải có năng suất cao; (ii) hoặc theo hình thức quảng canh: nghĩa là
    bò sữa được chăn thả chủ yếu trên những đồng cỏ rộng lớn, thức ăn
    16
    bổ sung tại chuồng hầu như rất ít nhưng vẫn thu được hiệu quả cao do
    chi phí đầu tư ít.
    Với điều kiện hiện nay ở nướùc ta, hai phương thức trên đều khó
    có thể thực hiện được bởi vì chúngta không thể nuôi được giống bò
    có năng suất cao (khí hậu không thích hợp) và chúng ta cũng không
    thể có những đồng cỏ rộng lớn (chăn nuôi bò sữa phải bám vào các cơ
    sở chế biến, thường tập trung ở thành phố). Vì thế, ở nước ta nói riêng
    và các nước đang phát triển nói chung tồn tại một phương thức chăn
    nuôi bò sữa với quy mô đầu con nhỏ, giống bò lai,đầu tư ít, nuôi nhốt
    tại chuồng và không sử dụng thức ăn theo hướng công nghiệp hóa.
    Phương thức đó làm cho năng suất chăn nuôi không cao, hiệu quả
    kinh tế kém. Để chăn nuôi bò sữa có hiệu quả, người nông dân phải
    tận dụng tối đa: (i) công lao động trong gia đình và (ii) nguồn thức ăn
    sẵn có tại địa phương mà chủ yếu là phụ phế phẩm công nông nghiệp.
    Như vậy, quan điểm sử dụng phụ phế phẩm làm nguồn thức ăn
    chính trong chăn nuôi bò sữa ở những vùng ven đô thị là một chiến
    lược đúng đắn, phù hợp với trình độ của người nông dân, điều kiện
    kinh tế xã hội và đặc biệt là không cạnh tranh với nguồn lương thực
    của các gia súc khác và của con người. Với phương thức này, có thể
    chúng ta không thể đạt năng suất tối đa nhưng đạt tốiưu về đầu tư và
    hiệu quả kinh tế. Ngoài ra, với chiến lược sử dụng phụ phế phẩm
    17
    trong chăn nuôi bò sữa, chúng ta có thể tăng quy mô đàn ở phạm vi
    từng hộ gia đình, từng vùng và cả nước. Tuy nhiên, phụ phế phẩm
    thường có giá trị dinh dưỡng thấp hoặc mấtcân đối làm cho khẩu
    phần bò sữa thường không đáp ứng đúng nhu cầu của gia súc.
    Từ trước đến nay đã có nhiều tác giả trong và ngoài nước tập trung
    nghiên cứu sử dụng phụ phế phẩm làm thức ăn cho gia súc nhai lại. Những
    nhà khoa học nổi tiếng như Preston T.R, Leng R.A, Orskov E.R, Devendra
    C, Sundstol F, Owen E, Wanapat M, . đã cống hiến rất nhiều công sức cho
    việc nghiên cứu lĩnh vực này. Ở trong nước, nhiều tác giả cũng đã quan tâm
    đến việc sử dụng phụ phế phẩm làm thức ăn cho trâu bò như Bùi Xuân An,
    Bùi Văn Chính, Lê Xuân Cương, Lưu Trọng Hiếu, Lê Viết Ly, Nguyễn Văn
    Thu, Nguyễn Xuân Trạch .
    Tuy nhiên, các nghiên cứu thường tập trung trên đối tượng trâu bò địa
    phương đang được sử dụng với mục đích sinh sản và cày kéo. Những đối
    tượng gia súc này thường được chăn thả ngoài đồng, chăn nuôi không mang
    tính hàng hóa nên các kết quả nghiên cứu chưa được người nông dân triển
    khai một cách rộng rãi. Với điều kiện chăn nuôi bò sữa nông hộ như hiện
    nay, chúng tôi nhận thấy có thể và cầnphải áp dụng chiến lược này một cách
    kịp thời để giải quyết tình trạng thiếu hụt và mất cân đối dinh dưỡng của đàn
    bò sữa.
    18
    Vì thế, chúng tôi tiến hành nghiên cứuvấn đề này một cách đầy đủ hơn
    với đề tài: “Nghiên cứu sử dụng một số phụphế phẩm công nông nghiệp và
    xây dựng khẩu phần ăn cho bò sữa dựa trên nguồn thức ăn sẵn có ở một số
    tỉnh phía Nam”.
    3. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
    - Mục tiêu chung:Sử dụng tối đa và có hiệu quả nguồn phụ phế phẩm sẵn có
    làm thức ăn cho gia súc nhai lại nói chung, bò sữa nói riêng để phát triển
    ngành sản xuất sữa trong nước.
    - Mục tiêu cụ thể:Nghiên cứu một số vấn đề (problems) cơ bản về phụ phế
    phẩm làm cơ sở cho việc triển khai ra thực tiễn sản xuất, bao gồm:
    ¾ Đánh giá giá trị dinh dưỡng của phụphế phẩm thường dùng cho bò sữa và
    đặc điểm khẩu phần ăn của bò sữa dựa trên nguồn phụ phế phẩm sẵn có ở
    khu vực phía Nam.
    ¾ Nghiên cứu sử dụng rơm ủ urê và bánh dinh dưỡng trong khẩu phần ăn
    của bò sữa.
    ¾ Nghiên cứu cải tiến khẩu phần và lập bảng phối hợp thức ăn dựa trên
    nguồn phụ phế phẩm sẵn có để xây dựng khẩu phần cho bò sữa.
    19
    4. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
    Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thức ăn từ nguồn phụ phế phẩm và
    khẩu phần ăn của bò sữa trong chăn nuôi nông hộ khu vực phía Nam nói
    chung, TP Hồ Chí Minh và một số tỉnh phụ cận nói riêng. Giống bò sữa là
    giống bò lai Hà Lan (Holstein Friesian x Lai Sindhi) có 50, 75% máu bò Hà
    Lan. Các nội dung nghiên cứu được thực hiện trong phòng thí nghiệm và tại
    một số trại chăn nuôi bò sữa gia đình và quốc doanh.
    5. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI
    1/Sử dụng một số chỉ tiêu về cấu trúc xơ như Neutral Detergent Fiber (NDF),
    Acid Detergent Fiber (ADF), lignin để đánh giá đặc điểm dinh dưỡng của
    phụ phế phẩm, đặc biệt là khả năng ăn vào và tỷ lệ tiêu hóa.
    2/Nghiên cứu khả năng phân giải vật chất khô, vật chất hữu cơ và xơ thô của
    phụ phế phẩm đối với bò sữa trong điều kiện khẩu phần khác nhau (bằng
    phương pháp lỗ dò dạ cỏ In Sacco).
    3/Xác định ảnh hưởng của thức ăn và khẩu phần (trên nền thức ăn hiện đang
    được sử dụng) đến một số chỉ tiêu cơ bản của môi trường dạ cỏ là pH và NH3
    dịch dạ cỏ của bò sữa đang được nuôi ở Việt Nam.
    4/Xây dựng phương pháp phối hợp thức ăn đơn giản, có hiệu quả và phù hợp
    với hệ thống chăn nuôi hiện nay để xây dựng khẩu phần ăn cho bò sữa dựa
    20
    trên nguồn thức ăn sẵn có tại địa phương, đặc biệt là rơm ủ urê và bánh dinh
    dưỡng (hai sản phẩm của phụ phế phẩm).
    5/Đề tài đã góp phần vào việc triển khai và mở rộng những tiến bộ khoa học
    kỹ thuật sử dụng phụ phế phẩm vào thực tiễn chăn nuôi bò sữa.
    Chương 1
    TỔNG QUAN TÀI LIỆU
    1.2. SỬ DỤNG PHỤ PHẾ PHẨM TRONG CHĂN NUÔI BÒ SỮA
    Để nâng cao hiệu quả chăn nuôi bò sữa, nhất là ở các nước nhiệt đới,
    cần phải sử dụng triệt để và hiệu quả nguồn phụ phế phẩm sẵn có tại địa
    phương, vì:
    * Diện tích đồng cỏ tự nhiên có hạn, trong khi nguồn phụ phế phẩm
    công nông nghiệp rất phong phú vềchủng loại và số lượng.
    * Gia súc nhai lại có khả năng tiêuhóa nguồn carbohydrate, đặc biệt là
    chất xơ mà những động vật dạ dày đơn không tiêu hóa được.
    * Gia súc nhai lại có khả năng sử dụng nitơ phi protein thông qua sự
    phát triển của hệ vi sinh vật dạ cỏ để cung cấp protein cho chính nó. Nguồn
    nitơ phi protein lại là những chất có thể sử dụng để xửlý (bằng phương pháp

    TÀI LIỆU THAM KHẢO
    I. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
    1. Bùi Xuân An, Sử dụng hợp lý dây đậu phộng làm thức ăn cho gia súc nhai
    lại trên vùng miền Đông Nam Bộ.Luận án Tiến sỹ, TP HCM, 1998
    2. Đinh Văn Cải, Xây dựng tiêu chuẩn khẩu phần ăn cho bò lai F1, F2hướng
    sữa.Báo cáo khoa học tại Viện Khoa học Nông nghiệp miền Nam, TP Hồ
    Chí Minh, 1994.
    3. Đinh Văn Cải, Nghiên cứu sử dụng hạt bông vải và khô dầu nhân hạt bông
    vải trong thức ăn hỗn hợp gà thịt và bò sữa.Báo cáo khoa học Bộ
    NN&PTNT 1998-1999, Huế, 1999.
    4. Đinh Văn Cải, Phạm Hồ Hải, Nguyễn Thị Diễm Trang, Trần Thị Kim
    Anh, Nguyễn Văn Trí và Phùng Thị Lâm Dung, Đánh giá và cải thiện hàm
    lượng chất béo trong sữa bò ở khu vực TP Hồ Chí Minh.Báo cáo khoa học
    Bộ NN&PTNT 1998-1999, Huế, 1999.
    5. Bùi Văn Chính và Lê Trọng Lạp, Nghiên cứu khẩu phần ăn cho bò lai
    hướng sữa Holstein x Laisind ở thời kỳ vắt sữa.Tuyển tập kết quả nghiên
    cứu khoa học kỹ thuật chăn nuôi, Viện Chăn nuôi quốc gia, Nhà xuất bản
    Nông nghiệp , Hà nội, 1996.
    6. Bùi Văn Chính, Lê Viết Ly, Nguyễn Hữu Tào, Trần Bích Ngọc và Hòang
    Minh Thành, Nghiên cứu chế biến sử dụng lá mía làm thức ăn cho gia súc
    nhai lại.Báo cáo khoa học Bộ NN&PTNT 1998-1999, Huế, 1999.
    135
    7. Cục Khuyến nông Khuyến lâm, Sổ tay khuyến nông, 1997.
    8. Lê Xuân Cương, Biến rơm cỏ thành thịt sữa.Nhà xuất bản Nông nghiệp,
    TP Hồ Chí Minh, 1994.
    9. Lê Xuân Cương, Đoàn Đức Vũ, Chung Anh Dũng, Phạm Hồ Hải, Vương
    Ngọc Long, Lưu Văn Tân, Đặng Phước Chung, Đinh Huỳnh, Đinh Văn
    Cải, Lã Văn Kính và Vũ Văn Độ. Đánh gía nguồn thúc ăn, phương thức
    nuôi dưỡng và những vấn đề liên quan đến chăn nuôi bò sữa ở hộ gia đình.
    Trong: Cải tiến hệ thống nuôi dưỡng và sản xuất sữa tại các hộ chăn nuôi
    gia đình. pp. 4-34, 1995.
    10. Đinh Hùynh, Lê Hà Châu, Phipippe Lecomte, Aûnh hưởng của phương thức
    và mức bón phân đến năng suất và chất lượng của ba giống cỏ hòa thảo
    trên nền đất xám miền Đông Nam Bộ.Tuyển tập kết quả nghiên cứu dự án
    STD2, Kỹ thuật nâng cao giá trị sữa, TP Hồ Chí Minh, 1994.
    11. Đinh Hùynh, Nguyễn Hòai Hương, Phan Bùi Ngọc Thảo và Philippe
    Lecomte, Xử lý rơm bằng urê và rỉ đường.Tuyển tập kết quả nghiên cứu
    dự án STD2, Kỹ thuật nâng cao giá trị sữa, TP Hồ Chí Minh, 1994
    a
    .
    12. Lê Viết Ly và Bùi Văn Chính, Phát triển chăn nuôi trong hệ thống nông
    nghiệp bền vững.Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội, 1996.
    13. Nguyễn Nghi và Vũ Văn Độ, Thành phần hoá học và giá trị dinh dưỡng
    của một số loại thức ăn chính dùng cho chăn nuôi bò sưãkhu vực TP. Hồ
    Chí Minh.Trong: Cải tiến hệ thống nuôi dưỡng và sản xuất sữa tại các hộ
    chăn nuôi gia đình, pp. 35 – 52, 1995.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...