Tiểu Luận Nghiên cứu quá trình công nghiệp hóa nông thôn tại các cụm công nghiệp làng nghề bắc ninh và hà tây

Thảo luận trong 'Chưa Phân Loại' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    1. Đặt vấn đề
    Công nghiệp nông thôn là một bộ phận của kết cấu ngành công nghiệp, bao gồm các
    cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tồn tại ở nông thôn, gắn bó mật thiết với
    sản xuất nông nghiệp và kinh tế - xã hội ở nông thôn. Công nghiệp hóa (CNH) là quá trình
    nâng cao tỷ trọng của công nghiệp trong toàn bộ các ngành kinh tế, đồng thời tăng cường sử
    dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và trang thiết bị cơ khí trong các ngành sản xuất và kinh
    doanh. Như vậy, CNH nông thôn là quá trình nâng cao tỷ trọng về giá trị của các ngành
    công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, đồng thời nâng cao việc sử dụng thiết bị cơ
    giới trong các ngành nghề sản xuất, kinh doanh ở nông thôn.
    Gần 4 thập kỷ qua, kể từ 1960 thế giới đã chứng kiến sự trỗi dạy của xu hướng CNH
    nông thôn ở các nước châu Á như Đài Loan, Thái Lan, Ấn Độ và gần đây là Trung Quốc.
    Sự xuất hiện và phát triển nhanh của xu hướng này trước hết bắt nguồn từ sự thất vọng về
    nền đại công nghiệp qui mô lớn hiện đại ở thành phố trong việc tạo việc làm, tăng thu nhập
    và xóa đói giảm nghèo [1]. Kinh nghiệm cho thấy ở một số nước Châu Á việc phát triển
    công nghiệp nông thôn đã được tiến hành theo nhiều các khác nhau như ở Đài Loan, Nhà
    nước khuyến khích lập các nhà máy, xí nghiệp công nghiệp nhẹ như ngành sợi, dệt, đồ chơi
    trẻ em, chế biến nông sản thực phẩm nằm phân tán ở các huyện lỵ, thị trấn ở các vùng nông
    thôn, gần nơi có nguồn nguyên liệu, . Ở Ấn Độ, phát triển các xí nghiệp nhỏ với các ngành
    thủ công nghiệp ở nông thôn, đó là các ngành cần ít vốn nhưng lại có sẵn nguyên liệu, lao
    động và không đòi hỏi kỹ thuật phức tạp. Ở Trung Quốc, sự CNH nông thôn đã phát triển
    2
    doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn do nông dân thực hiện như xí nghiệp Hương Trấn1 từ
    những năm 1980 [2]. Ở Thái Lan, CNH nông thôn chỉ phát triển ở những vùng thuận lợi,
    ven các đô thị lớn. Ở nông thôn, phần lớn các xí nghiệp công nghiệp làm chế biến nông, lâm
    sản và bán tại chỗ. Trong việc CNH nông thôn của Thái Lan có phong trào với tên gọi “One
    tambon, one product” (mỗi làng, một sản phẩm) được phát động từ năm 1999 sau khi Thủ
    tướng Thái Lan đi thăm cửa hàng “one village, one product” tại Nhật Bản [3].
    Như vậy, trong quá trình CNH nông thôn, một số nước đã thành công trong việc phát
    triển các ngành nghề phi nông nghiệp và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn.
    Còn ở Việt Nam, chiến lược CNH nông thôn đã được đưa ra từ Nghị quyết Trung ương V,
    khóa VII, ngày 10/06/1993 và đến nay vẫn đang tiếp tục đẩy mạnh. Câu hỏi đặt ra là trong
    thời gian qua Việt Nam đã tiến hành sự nghiệp CNH nông thôn theo mô hình nào? Có điều
    gì mới trong quá trình CNH trong các làng nghề ở nông thôn? Điều gì rút ra được từ sự phát
    triển của các làng nghề trong quá trình CNH nông thôn ?
    2. Kết quả nghiên cứu
    2.1. Công nghiệp hóa nông thôn ở Việt Nam
    Đến nay, dân số Việt Nam có trên 84 triệu người, trong đó có 75% dân số sông ở
    nông thôn. Trong những năm qua, công nghiệp ở thành thị có sự phát triển nhưng không đủ
    sức thu hút hết lao động tăng thêm đến từ nông nghiệp và các vùng nông thôn. Sự dư thừa
    lao động và sự di dân từ các vùng nông thôn về các thành phố kiếm việc làm ngày càng tăng
    nhanh. Hiện nay, tỷ trọng của khu vực công nghiệp và xây dựng chỉ chiếm 42,0% trong cơ
    cấu kinh tế và tỷ lệ lao động trong công nghiệp chỉ chiếm khoảng 18% trong tổng số lao
    động của nền kinh tế.
    Vì vậy, mục tiêu của chiến lược CNH nông thôn ở Việt Nam là tăng thu nhập của
    nông dân, mở rộng thị trường lao động và CNH, HĐH cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Để đạt
    được 3 mục tiêu quan trọng này, chiến lược CNH nông thôn được dựa trên cơ khí hóa sản
    xuất nông, công nghiệp và phát triển các ngành nghề chế biến theo hướng xuất khẩu hoặc
    thay thế nhập khẩu và các ngành nghề thủ công nghiệp ở nông thôn [4]. Thực tế ở Việt nam,
    trong thời gian qua đã có 2 hình thức CNH nông thôn chủ yếu.
    Thứ nhất là loại hình CNH nông thôn dựa vào việc phát triển các khu công nghiệp đa
    ngành ở các vùng nông thôn ven đô và dọc các trục đường quốc lộ chính để thu hút các
    doanh nghiệp từ thành phố và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhằm phát triển
    sản xuất công nghiệp, dịch vụ và giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn. Loại hình
    công nghiệp này bắt đầu phát triển từ đầu những năm 1990, đến nay nó vẫn tiếp tục phát
    triển mạnh và đã hình thành hệ thống sản xuất có công nghệ và trang thiết bị hiện đại,
    chuyên làm gia công cho các doanh nghiệp của đô thị và nước ngoài.
    1 Các doanh nghiệp Hương Trấn (Township an Village Entreprise - TVE) được chia thành doanh nghiệp tập thể (làng,
    xã, thị trấn) và doanh nghiệp tư nhân (doanh nghiệp có ít nhất 8 công nhân gọi là doanh nghiệp tư nhân và dưới 8 công
    nhân gọi là doanh nghiệp cá thể).
    3
    Đối với loại hình CNH nông thôn này, Nhà nước đã ban hành các chính sách rất
    thông thoáng và thuận lợi cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư và xây dựng nhiều
    khu công nghiệp ở các vùng ven đô và các vùng nông thôn. Ban đầu, các thành phố lớn
    được coi như là một động lực thúc đẩy sự nghiệp CNH và HĐH của cả nước nên sự ưu tiên
    được giành cho các tam giác tăng trưởng kinh tế như: Tam giác tăng trưởng phía Bắc là Hà
    Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh, ở miền trung là Huế - Đà nẵng – Quảng Ngãi và miền nam
    là Thành phố Hồ Chí Minh – Biên Hòa – Vũng Tàu [5]. Nhưng hiện nay, mọi chính sách và
    sự ưu đãi đều được thực hiện ở tất cả các tỉnh thành trong toàn quốc. Đặc biệt, Nhà nước đã
    thực hiện việc phân cấp, phân quyền cho các địa phương tổ chức lập dự án, thẩm định dự án
    trình Chính phủ phê duyệt, rồi xây dựng và quản lý các khu công nghiệp tại địa phương.
    Đến nay cả nước có trên 150 khu công nghiệp - khu chế xuất với diện tích trên
    25000ha, dự kiến đến năm 2015 sẽ thành lập mới thêm 115 khu công nghiệp và mở rộng 27
    khu công nghiệp. Tính từ năm 1988 đến năm 2007, Việt Nam đã thu hút 9.500 dự án đầu tư
    nước ngoài với tổng vốn đăng ký khoảng 98 tỷ USD. Riêng khu vực kinh tế có vốn đầu tư
    nước ngoài chiếm khoảng 16% GDP, đóng góp vào ngân sách Nhà nước vượt 1,5 tỷ USD
    trong năm 2007; đồng thời giải quyết việc làm cho hơn 1,2 triệu lao động trực tiếp và hàng
    triệu lao động gián tiếp [6].
    Thứ hai là loại hình CNH nông thôn thông qua phát triển các làng nghề2 ở nông thôn
    dựa trên sự năng động của nhân dân và chính quyền địa phương. Các làng nghề thường sản
    xuất hàng tiêu dùng, thủ công mỹ nghệ, các sản phẩm nghệ thuật phục vụ cho thị trường nội
    địa và xuất khẩu hoặc là các làng nghề chuyên chế biến lương thực, thực phẩm và nguyên
    vật liệu phục vụ cho tiêu dùng và công nghiệp chế biến khác. Trong các làng nghề năng
    động cũng đã và đang có nhiều hộ gia đình chuyển thành các doanh nghiệp nhỏ và vừa để
    phát triển sản xuất kinh doanh ở quy mô lớn hơn và tham gia vào thị trường trong nứớc và
    quốc tế.
    Theo thống kê của Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản JICA [7], đến năm 2003 toàn
    quốc có 2017 làng nghề3. Các làng nghề ở Việt Nam đã giải quyết được việc làm cho hơn
    1,3 triệu lao động thường xuyên và đang đóng góp tích cực vào việc CNH nông thôn và xóa
    đói giảm nghèo ở nông thôn. Thị trường tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề đã được tiêu
    thụ trên 100 nước trên thế giới, giá trị xuất khẩu các hàng thủ công mỹ nghệ đã đạt 565 triệu
    USD/năm. Trong những năm vừa qua, mặc dù Nhà nước đã có những chủ trương, chính
    sách nhằm khôi phục và phát triển các làng nghề. Nhưng gần như các làng nghề còn phát
    triển tự phát, chưa có sự hỗ trợ hiệu quả và kiểm soát chặt chẽ của nhà nước. Hiện nay có
    nhiều làng nghề không phát triển được và có nguy cơ mất nghề. Nhưng cũng có một số làng
    nghề năng động đã đổi mới, hiện đại hóa sản xuất và đã trở thành các cụm công nghiệp làng
    nghề (CCNLN), đó thường là những khu vực tập trung nhiều doanh nghiệp, nhiều tiềm năng
    2 Làng nghề là một hoặc nhiều cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản, làng, buôn, phum, sóc hoặc các điểm dân cư tương tự trên
    địa bàn một xã, thị trấn, có các hoạt động ngành nghề nông thôn, sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản phẩm khác nhau.
    3 Tiêu chi để xác định làng nghề là làng có các hoạt động liên quan đến nghề nào đó thu hút ít nhất 20% tổng số hộ làm
    nghề và tạo ra ít nhất 20% tổng giá trị sản xuất tạo ra trên địa bàn của làng đó.
    4
    sáng tạo, đổi mới và là nơi để nuôi dưỡng và phát triển các doanh nghiệp chính thức
    (formel) vì thế các CCNLN này cần phải được quy hoạch và phát triển như một hệ thống
    sáng tạo và sự đổi mới ở nông thôn.
    2.2. Cụm công nghiệp làng nghề ở vùng Đồng bằng sông Hồng
    Khái niệm về cụm công và cụm công nghiệp làng nghề
    Khái niệm cụm công nghiệp “district industriel” xuất hiện vào cuối thế kỷ 19 bởi
    Marshall [8] xuất phát từ việc nghiên cứu của ông về sự tập trung sản xuất công nghiệp ở
    miền bắc nước Anh. Sau đó, khái niệm này được phát triển theo 2 trường phái tiếp cận công
    nghiệp khác nhau. Các nhà nghiên cứu theo trường phái Pháp như Courlet et Pecqueur [9],
    Colletis [10], gọi là các hệ thống sản xuất địa phương SPL “Systèmes productifs
    localisés”, đó là hệ thống sản xuất đề cập nhiều đến khía cạnh lãnh thổ. Các nhà nghiên cứu
    theo trường phái Anh - Mỹ gọi là cụm công nghiệp “cluster” hay “district industriel” với các
    tiếp cận của G. Becattini [11]; M. Porter [12]; Nadvi et Schmitz [13], Qua việc nghiên
    cứu về chuyển đổi cơ cấu kinh tế và công nghiệp hóa nông thôn ở vùng ĐBSH, chúng tôi
    thấy có sự xuất hiện các CCNLN giống như các cụm công nghiệp ở Italia từ những năm
    1970 [14]. Vì vậy, trong nghiên cứu này chúng tôi sẽ vận dụng khái niệm cụm công nghiệp
    (cluster) và phương pháp tiếp cận của G. Becattini; M. Porter; Nadvi et Schmitz và tham
    khảo các công trình nghiên cứu của họ đã thực hiện tại Italia, Mỹ và các nước đang phát
    triển như Brasil và Inđônêxia. Vậy cụm công nghiệp là gì ?
    Cụm công nghiệp theo G. Becattini [11, opcit] là một thực thể xã hội – lãnh thổ đặc
    trưng bởi sự có mặt hoạt động của một cộng đồng người và quần thể doanh nghiệp trong
    một không gian địa lý và lịch sử nhất định.
    Cụm công nghiệp theo M. Porter [12, opcit] là sự tập trung về địa lý của các doanh
    nghiệp, của các nhà cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp hóa, của những người được hưởng
    dịch vụ, của các ngành công nghiệp và các tổ chức có liên quan.
    Thực tế, có nhiều định nghĩa khác nhau về cụm công nghiệp. Nhưng trong các định
    nghĩa đều chứa đề cập đến sự tập trung theo địa lý của các doanh nghiệp gắn kết với sự đổi
    mới và có sự phát triển năng động do tính hiệp đồng thừa hưởng từ “Tính hiệu quả tập thể’’
    thông qua các tác động kinh tế từ bên ngoài, từ mạng lưới các nhà cung cấp, mạng lưới
    khách hàng và các lợi ích của các hoạt động tập thể [13, opcit]. Trong cụm công nghiệp, vấn
    đề mấu chốt là có sự hiệp đồng, sản xuất với qui mô lớn, có sự tác động qua lại, có sự tương
    trợ, có sự ganh đua và có khả năng phản ứng nhanh với những thay đổi của thị trường để
    mang lại hiệu quả trong sản xuất và kinh doanh.
    Ở Việt Nam, Cụm công nghiệp làng nghề là một hệ thống sản xuất địa phương, được
    đặc trưng bởi sự tập trung theo địa lý các doanh nghiệp4 sản xuất, kinh doanh và dịch vụ có
    4 Doanh nghiệp ở đây hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả hộ gia đình tham gia sản xuất kinh doanh và các doanh nghiệp
    chính thức có đăng ký thành lập theo luật doanh nghiệp của Việt Nam.
    5
    sự chuyên môn hóa trong cùng một hoạt động hoặc một nhóm các hoạt động bổ trợ cho
    nhau. Sự tập trung theo địa lý của các doanh nghiệp đã tạo ra các thể chế thúc đẩy sự hình
    thành và phát triển các mối quan hệ, sự hợp tác và cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong
    cùng lãnh thổ, đồng thời tạo ra mạng lưới các nhà cung cấp, mạng lưới khách hàng và tạo
    ra sự đổi mới, các lợi ích chung cho các thành viên trong cùng lãnh thổ.
    Các kiểu cụm công nghiệp làng nghề ở vùng ĐBSH
    Trên cơ sở số liệu điều tra và thông tin thu thập được trong 90 CCNLN ở Hà Tây và
    Bắc Ninh, chúng tôi đã phân loại được 3 loại CCNLN, cụ thể như sau:
    A)- Cụm công nghiệp làng nghề đã công nghiệp hóa và chuyên môn hóa cao (chiếm
    30% trong tổng số CCNLN được điều tra), đây là CCNLN năng động với các đặc trưng của
    loại cụm này như sau:
    - Mật độ dân số cao (2500người/km2), đất nông nghiệp/người rất ít (260m2/người).
    - Tỷ lệ hộ làm nghề cao (có 53% số hộ ở địa phương làm ngành nghề và số lượng
    doanh nghiệp chính thức trong cụm nhiều (30doanh nghiệp/cụm)
    - Thu nhập từ ngành nghề cao (bình quân 1 triệu đồng/người/tháng). Tổng thu nhập
    từ ngành nghề chiếm 75% tổng thu nhập của cụm.
    - Vốn đầu tư cho sản xuất rất cao (trung bình mỗi hộ sản xuất đầu tư trên 100 triệu
    đồng, mỗi doanh nghiệp đầu tư vốn trên 1 tỷ đồng).
    - Có khả năng HĐH cao, đã đầu tư công nghệ và máy móc hiện đại (nhiều cụm có
    dây truyền sản xuất tự động). Có nhiều sự đổi mới về trang thiết bị và cơ khí hóa trong sản
    xuất.
    - Qui mô của cụm lớn và sử dụng nhiều lao động (bình quân là 4500lao động/cụm và
    đòi hỏi nhiều lao động có chuyên môn, đã được đào tạo nghề (lao động có trình độ chiếm
    trên 60%).
    - Thiếu lao động và phải thuê nhiều lao động đến từ nơi khác (lao động thuê từ địa
    phương khác đến là trên 1000lao động/1cụm, chiếm 24% tổng số lao động trong toàn cụm).
    - Có nhiều mối quan hệ, trao đổi giữa các làng nghề với nhau về lao động, vật tư và
    tiêu thụ sản phẩm. Thị trường phát triển mạnh ở cả trong nước và nước ngoài.
    - Có sự cạnh tranh cao về mặt bằng sản xuất, lao động và nguyên liệu trong cụm.
    - Các CCNLN loại này phần lớn tập trung các ngành hàng đồ gỗ, dệt vải, luyện kim
    và chế biến thực phẩm.
    6
    B)- Cụm công nghiệp làng nghề đang công nghiệp hóa có sự kết hợp làm nông
    nghiệp và ngành nghề (chiếm 36% trong tổng số 90 cụm được điều tra), đây là loại cụm
    năng động vừa với các đặc trưng của loại là:
    - Mật độ dân số tương đối cao (1500người/km2); Đất nông nghiệp/người thấp (bình
    quân là 500m2/người)
    - Tỷ lệ hộ làm nghề cao (chiếm 67% tổng số hộ trong CCNLN) và số doanh nghiệp
    chính thức trong cụm ít (bình quân 4 doanh nghiệp/1cụm)
    - Thu nhập của người lao động làm ngành nghề không cao (bình quân 550 nghìn
    đồng/người/tháng). Tổng thu nhập từ ngành nghề bình quân chỉ chiếm 48% tổng thu nhập,
    tổng thu nhập từ nông nghiệp chiếm 31% tổng thu nhập của cụm.
    - Vốn đầu tư cho sản xuất ở mức cao (trung bình mỗi hộ sản xuất đầu tư trên 50 triệu
    đồng, mỗi doanh nghiệp đầu tư vốn trên 500 triệu đồng).
    - Có khả năng HĐH trang thiết bị sản xuất nhưng vẫn chủ yếu sử dụng công nghệ
    truyền thống có cải tiến, ít đầu tư công nghệ và máy móc hiện đại.
    - Qui mô cụm trung bình và sử dụng nhiều lao động (lao động làm việc thường xuyên
    là 2700lao động/1cụm) và ít đòi hỏi các lao động đã được đào tạo nghề (lao động có trình
    độ chiếm dưới 50%).
    - Không thiếu lao động làm nghề, ít phải thuê lao động đến từ nơi khác (lao động
    thuê từ địa phương khác là 100 lao động/1cụm, chiếm 5% tổng số lao động trong cụm).
    - Có nhiều mối quan hệ giữa các làng nghề với nhau và với thị trường các tỉnh thành
    trong nước và có 1 số cụm có quan hệ với nước ngoài.
    - Ít có sự cạnh tranh về mặt bằng sản xuất, lao động và nguyên liệu trong các
    CCNLN này.
    - Các CCNLN lọai này phần lớn tập trung các ngành hàng mây tre đan, dệt vải và chế
    biến thực phẩm và chủ yếu được phát triển lên từ các làng nghề mới, có khả tìm kiếm được
    thị trường và đa dạng hóa các loại sản phẩm để đáp ứng nhu cầu thị trường.
    C)- Cụm công nghiệp làng nghề bắt đầu công nghiệp hóa và làm nông nghiệp là chủ
    yếu kết hợp với ngành nghề (chiếm 34% tổng số cụm), đây là loại CCNLN có sự năng động
    thấp và có các đặc trưng sau:
    - Mật độ dân số cao (bình quân 1400người/km2); Đất nông nghiệp/người thấp (bình
    quân là 520m2/người) so với diện tích đất nông nghiệp bình quân trong vùng ĐBSH là
    700m2/người.
    - Tỷ lệ hộ làm nghề không cao (có 41% số hộ ở địa phương làm ngành nghề) và số
    doanh nghiệp chính thức trong cụm rất ít (bình quân 2 doanh nghiệp/1cụm).
    7
    - Thu nhập của người lao động làm ngành nghề không cao (bình quân 600 nghìn
    đồng/người/tháng). Tổng thu nhập từ ngành nghề của cụm chỉ chiếm 31% tổng thu nhập của
    cụm, thấp hơn tổng thu nhập từ nông nghiệp (36%). Việc tái đầu tư cho sản xuất thấp.
    - Nhu cầu và thực vốn đầu tư cho ngành nghề thấp (trung bình mỗi hộ sản xuất đầu
    tư trên 10 triệu đồng, mỗi doanh nghiệp có vốn đầu tư trên 300 triệu đồng).
    - Khả năng HĐH sản xuất thấp, trong cụm ít đầu tư công nghệ và máy móc hiện đại
    trong sản xuất, sử dụng công cụ truyền thống được cải tiến với lao động chân tay là chính
    (nhiều cụm có phương tiện sản xuất rất thô sơ như cụm CCNLN thêu zen, mây tre đan).
    - Sử dụng nhiều lao động nhưng không đòi hỏi các lao động có chuyên môn cao
    (khoảng 1700 lao động/1cụm). Phần lớn các thợ thủ công trong các CCNLN này thường
    làm nông nghiệp kết hợp với làm nghề.
    - Trong các CCNLN này không thiếu lao động làm nghề và rất ít phải thuê lao động
    làm nghề đến từ nơi khác (bình quân lao động làm thuê từ nơi khác đến là 50 lao
    động/1cụm).
    - Trong cụm thường có ít mối quan hệ giữa các làng nghề với nhau và ít có mạng
    lưới buôn bán và giao lưu trực tiếp với bên ngoài. Phần lớn việc mua vật tư và tiêu thụ trong
    các CCNLN này thường qua các tác nhân trung gian.
    - Không có sự cạnh tranh về mặt bằng sản xuất, lao động và nguyên liệu trong cụm
    này.
    - Các CCNLN lọai này phần lớn tập trung các ngành hàng thêu zen, đan cói và nón
    lá, mây tre đan và chế biến thực phẩm.
    Như vậy, trong vùng ĐBSH đang có nhiều loại CCNLN khác nhau. Nhưng mỗi
    CCNLN đã phát triển theo hướng khai thác thế mạnh của mỗi vùng và tuỳ theo các kênh
    (niche) hành hóa và dịch vụ mà CCNLN đó có khả năng sản xuất để đáp ứng nhu cầu của
    thị trường. Ở đây chúng tôi xin trình bày một số CCNLN tiêu biểu trong vùng ĐBSH.
    Thực trạng một số cụm công nghiệp làng nghề tiêu biểu
     
Đang tải...