Tiến Sĩ Nghiên cứu phương pháp cắt niêm mạc qua nội soi điều trị thương tổn tân sinh ở niêm mạc dạ dày

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 24/10/15.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    ĐẶT VẤN ĐỀ

    U tân sinh (neoplasia) được định nghĩa là một khối mô bất thường phát
    triển nhanh và vô tổ chức so với mô bình thường và vẫn phát triển tiếp tục sau
    khi tác nhân kích thích sự bất thường này đã mất [31], [73].
    Các u tân sinh được định danh theo nguồn gốc mô học: từ biểu mô
    (epithelial) hay từ trung mô (mesenchymal). Về mặt sinh học tùy theo mức độ
    sinh sản của tế bào mà có u lành hay u ác tính.
    Về mặt thực hành, u tân sinh ở dạ dày bao gồm políp có cuống, políp
    không cuống, ung thư ở giai đoạn sớm và u biểu mô nghịch sản
    Cắt niêm mạc qua nội soi (CNMQNS) được tiến hành từ năm 1973.
    Lúc đầu, phương pháp này được xem như là “sinh thiết trọn”. Vào thập
    niên 1990, các tác giả Nhật là những người đi tiên phong phát triển các
    phương pháp này để điều trị các thương tổn tân sinh của ống tiêu hóa. Bác sĩ
    nội soi là người đầu tiên áp dụng thành công phương pháp này trong điều trị
    ung thư thực quản giai đoạn sớm [41], [44].
    CNMQNS khó kiểm soát rìa mặt cắt và tổn thương có đường kính lớn
    hơn 20 mm. Để khắc phục những hạn chế này, phương pháp cắt dưới niêm
    mạc qua nội soi (CDNMQNS) đã và đang được nghiên cứu áp dụng rộng rãi
    trên thế giới, đặc biệt tại Nhật và Hàn Quốc [9], [29], [30], [33], [37], [39].
    Ung thư ống tiêu hóa giai đoạn sớm được định nghĩa là tổn thương khu
    trú ở niêm mạc hoặc dưới niêm mạc chưa xâm lấn đến lớp cơ (muscularis
    propria) có tỉ lệ di căn hạch rất thấp [40], [41], [42].
    Mặc dù diễn tiến tự nhiên của loại bệnh lý này tương tự nhau trên toàn
    thế giới nhưng cách xử lý giữa các tác giả phương Đông và phương Tây rất
    khác nhau. Cắt bỏ rộng là quan điểm của các tác giả phương Tây trong khi
    các tác giả phương Đông chuộng phương pháp điều ít xâm hại hơn.

    2
    CNMQNS và CDNMQNS được ứng dụng rộng rãi trên thế giới để điều
    trị các thương tổn tân sinh của ống tiêu hóa trong đó có các thương tổn tiền
    ung thư và các ung thư giai đoạn sớm của ống tiêu hóa [46], [44], [49], [52],
    [57], [58], [63].
    Nhiều nghiên cứu cho thấy ung thư ống tiêu hóa giai đoạn sớm có tỉ lệ
    di căn hạch rất thấp. Gotoda [35] ghi nhận tỉ lệ di căn hạch 0% nếu ung thư
    khu trú ở niêm mạc dạ dày có kích thước  20 mm dù có hoặc không có biệt
    hóa ở tế bào ung thư.
    Kỹ thuật CNMQNS và CDNMQNS đang được thực hiện tại Nhật và
    Hàn Quốc như là một phương pháp chẩn đoán giai đoạn vừa là phương pháp
    điều trị các thương tổn tân sinh và ung thư dạ dày giai đoạn sớm.
    Do đó CNMQNS có thể điều trị triệt để ung thư giai đoạn sớm với kết
    quả ban đầu tương đương với phẫu thuật nhưng lại có nhiều ưu điểm như
    bệnh nhân hồi phục sớm, thời gian nằm viện ngắn, ít đau, thẩm mỹ . [59],
    [58].
    Ở Việt Nam, kỹ thuật này đã được thực hiện tại BV. Bạch Mai và BV.
    Chợ Rẫy tuy nhiên chưa mang tính phổ biến. Hiện tại, ngành nội soi tiêu hóa
    đã phát triển mạnh nên tỉ lệ chẩn đoán được các thương tổn tân sinh ngày
    càng nhiều. Nhận thấy CNMQNS có thể áp dụng ở Việt Nam nên chúng tôi
    tiến hành nghiên cứu áp dụng phương pháp điều trị này với mục tiêu nghiên
    cứu như sau:
    1. Khảo sát tỉ lệ thành công của CNMQNS trong điều trị các thương tổn
    tân sinh ở dạ dày như políp không cuống, ung thư giai đoạn sớm hoặc
    thương tổn nghịch sản.
    2. Khảo sát tỉ lệ biến chứng thủng và chảy máu sau CNMQNS trong điều
    trị các thương tổn tân sinh ở dạ dày như políp không cuống, ung thư
    giai đoạn sớm hoặc thương tổn nghịch sản.

    3
    3. Đánh giá kết quả sớm khi theo dõi tái khám trong thời gian thực hiện
    nghiên cứu này đối với điều trị các thương tổn tân sinh ở dạ dày.


























    4
    Chương 1
    TỔNG QUAN TÀI LIỆU

    1.1. UNG THƯ DẠ DÀY GIAI ĐOẠN SỚM
    1.1.1. Định nghĩa
    Ung thư ống tiêu hóa giai đoạn sớm là những ung thư khu trú trong
    niêm mạc hoặc lớp mô đệm hoặc lớp dưới niêm mạc, chưa xâm lấn qua lớp
    cơ ống tiêu hóa, có tỉ lệ di căn hạch rất thấp. Đó là những ung thư Tis và T1
    theo hệ thống phân loại giai đoạn TNM của hiệp hội phòng chống ung thư
    quốc tế [12], [67].
    1.1.2. Phân loại ung thư dạ dày giai đoạn sớm theo các tác giả Nhật
    Theo các bác sĩ nội soi Nhật, ung thư giai đoạn sớm của ống tiêu hóa
    nói chung và của dạ dày nói riêng được gọi là những ung thư týp 0 để phân
    biệt với những ung thư tiến triển theo phân loại của Borrmann [12],[89].
     Týp 0 - I: Tổn thương nhô cao hơn 2 lần niêm mạc bình thường (hình
    1.1).
     Týp 0 - II: Chia làm 3 týp như sau:
    * Týp 0 - IIa: Tổn thương hơi nhô cao bằng hoặc nhỏ hơn 2 lần niêm
    mạc bình thường, tế bào ác tính nằm trên bề mặt tổn thương nhô cao
    (hình 1.2).
    * Týp 0 - IIb: Tổn thương phẳng, tế bào ác tính nằm trên bề mặt tổn
    thương (hình 1.3).
    * Týp 0 - IIc: Tổn thương hơi lõm, tế bào ác tính nằm ở đáy tổn
    thương (hình 1.4).
     Týp 0 - III: Tổn thương lõm sâu, là týp giống ổ loét với các tế bào ác
    tính hiện diện ở bờ tổn thương (hình 1.5).

    5
    Týp 0 - IIa và 0 - IIc là các týp thường gặp của ung thư sớm. Týp 0 - IIa
    thường gặp ở hang vị và thường là carcinoma có biệt hóa. Týp 0 - IIc thường
    gặp ở phình vị và là carcinoma không biệt hóa.
    Carcinôm có biệt hóa có đặc điểm là lan rộng bề mặt niêm mạc và dưới
    niêm mạc, trong khi đó ung thư không biệt hóa là týp xâm nhập. Ung thư có
    biệt hóa phát triển từ chuyển sản ruột, trong khi đó ung thư không biệt hóa
    phát triển từ biểu mô tuyến.
    Týp 0 - IIb khó chẩn đoán nhất, thường chỉ chẩn đoán được dựa vào sự
    thay đổi màu sắc niêm mạc so với xung quanh. Ngoài ra còn có các týp phối
    hợp như: 0 - IIa + IIc (hình 1.6), 0 – IIc + IIa (hình 1.7)
    Týp 0 - I và 0 - IIa phát triển thành týp Borrmann 1 và 2 theo phân loại
    ung thư tiến triển của Borrmann. Týp 0 - IIc và 0 - III phát triển thành týp
    Borrmann 3 và 4.


    Hình 1.1: Hình minh họa tổn thương 0 – I
    của ung thư giai đoạn sớm của ống tiêu hóa [12].








    2,5 mm
     
Đang tải...