Tiến Sĩ Nghiên cứu nhu cầu, đáp ứng dịch vụ chăm sóc sức khỏe người cao tuổi và thử nghiệm mô hình can thiệp

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 17/3/15.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    ĐẶT VẤN ĐỀ

    Với sự tiến bộ của khoa học và công nghệ, sự phát triển của kinh tế, xã
    hội, đời sống của con người ngày càng được nâng lên, tuổi thọ trung bình
    ngày càng tăng, dân số Việt Nam đang có xu hướng già hoá nhanh cả về tỷ lệ
    và số lượng tuyệt đối. Theo Tổng Điều tra biến động Dân số và Kế hoạch hoá
    gia đình (01/4/2012), tỷ trọng người cao tuổi (tính từ 60 tuổi trở lên) trong
    dân số đã tăng nhanh từ 7,2% vào năm 1989 lên 8,2% vào năm 1999, 9,9%
    vào năm 2011 và 10,2% vào năm 2012 [4]. Dự báo tỷ lệ này có thể sẽ tăng
    đột biến và đạt 16,8% vào năm 2029 và 22% vào năm 2050 [20].
    Tại Việt Nam, 72,9% người cao tuổi sống ở nông thôn và phần lớn
    trong số này là nông dân và làm nông nghiệp, 21% người cao tuổi được
    hưởng chế độ trợ cấp hưu trí hoặc mất sức và 70% c n lại sống chủ yếu
    bằng nỗ lực của chính mình. Chính vì vậy, khi đất nước chuyển sang cơ chế
    thị trường, họ là những người đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, phải
    thích nghi với nhiều thay đổi chưa từng có trước đây [20]. Khi tuổi cao, sức
    chống đỡ và sự chịu đựng của con người trước các yếu tố và tác nhân bên
    ngoài cũng như bên trong kém đi rất nhiều, đó chính là điều kiện thuận lợi
    để bệnh tật phát sinh, phát triển. Ngoài ra, ở người cao tuổi bệnh thường
    phát triển chậm chạp, âm thầm khó phát hiện và khi mắc bệnh thường mắc
    nhiều bệnh cùng một lúc, gây suy sụp sức khỏe rất nhanh chóng. Vì vậy, đối
    với người cao tuổi, nhu cầu được chăm sóc sức khỏe toàn diện như việc rèn
    luyện nâng cao sức khỏe về thể chất và tinh thần, khám phát hiện và điều trị
    bệnh kịp thời là rất cần thiết.
    Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến công tác chăm sóc sức khoẻ cho
    người cao tuổi, đó là đạo lý thể hiện truyền thống “trọng lão” của dân tộc ta. Mặc
    dù đã có nhiều mô hình quản lý và chăm sóc sức khỏe người cao tuổi được
    nghiên cứu, triển khai ứng dụng ở nhiều nước trên thế giới cũng như ở Việt

    2
    Nam, nhưng việc áp dụng vào hoàn cảnh cụ thể của từng địa phương c n phụ
    thuộc vào các điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, đặc biệt là người cao tuổi sống
    ở các khu vực nông thôn. Việc tìm kiếm một mô hình phù hợp để nâng cao sức
    khỏe, cải thiện chất lượng cuộc sống cho người cao tuổi ở khu vực nông thôn là
    một vấn đề quan trọng và mang tính đặc thù riêng.
    Đông Anh là một huyện ngoại thành của Thủ đô Hà Nội có diện tích
    18.230 ha, dân số 276.750 người. Đây là vùng đất có bề dày truyền thống lịch
    sử văn hóa, với nhiều thuận lợi về vị trí địa lý. Trong những năm gần đây tốc
    độ đô thị hóa của huyện diễn ra rất nhanh, số người cao tuổi cũng ngày một
    tăng cao, câu hỏi đặt ra là: (1) Tình hình sức khỏe và nhu cầu sử dụng dịch vụ
    chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi Đông Anh ra sao? (2) Sự đáp ứng của
    gia đình và xã hội đến công tác chăm sóc sức khỏe người cao tuổi như thế
    nào? (3) Chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể và y tế xã cần có những giải
    pháp nào để đáp ứng nhu cầu cơ bản về chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi
    tại tuyến xã? Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi tiến hành đề tài:
    “Nghiên cứu nhu cầu, đáp ứng dịch vụ chăm sóc sức khỏe người cao tuổi
    và thử nghiệm mô hình can thiệp cộng đồng tại huyện Đông Anh, Hà Nội”.
    MỤC TIÊU ĐỀ TÀI:
    1. Mô tả nhu cầu sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ người cao tuổi,
    thực trạng đáp ứng của trạm y tế xã và cộng đồng tại huyện Đông Anh, Hà Nội,
    năm 2012.
    2. Đánh giá hiệu quả mô hình quản lý, tư vấn, chăm sóc sức khoẻ người
    cao tuổi dựa vào cộng đồng tại 2 xã của huyện Đông Anh, Hà Nội.

    3
    CHƯƠNG 1
    TỔNG QUAN
    1.1. NHU CẦU SỬ DỤNG VÀ KHẢ NĂNG ĐÁP ỨNG DỊCH VỤ
    CHĂM SÓC SỨC KHỎE NGƯỜI CAO TUỔI
    1.1.1. Khái niệm người cao tuổi
    Người cao tuổi là một khái niệm lịch sử, gây nhiều tranh cãi trên bình
    diện tiếp cận của các khoa học, trình độ phát triển của xã hội và các nền văn
    hóa. Trong cuốn Bách khoa quốc tế về xã hội học (International
    encyclopedia of sociology) phần Người cao tuổi và sự quan tâm của các tổ
    chức xã hội khi đưa ra khái niệm về người cao tuổi các tác giả phân chia theo
    độ tuổi như sau [42]:
    + 65 – 74: người cao tuổi trẻ; 75 – 84: trung cao tuổi; > 84: nhóm già.
    Tổ chức Y tế thế giới (WHO) lại phân chia các lứa tuổi của người già [93]:
    + 60 - 74: người cao tuổi; 75 - 90: người già; > 90: người già sống lâu.
    Về mặt Pháp luật chung, theo Điều 2 trong Luật Người cao tuổi
    (11/2009) qui định người cao tuổi là “Công dân Việt Nam từ đủ 60 tuổi trở lên”
    [48]. Gần đây ở Việt Nam, khái niệm người cao tuổi được sử dụng phổ biến,
    tuy nhiên, về khoa học thì người già hay người cao tuổi đều được dùng với ý
    nghĩa như nhau.
    1.1.2. Người cao tuổi trên thế giới và ở Việt Nam
    1.1.2.1. Già hóa dân số
    Già hóa dân số là một hiện tượng vừa mang tính tự nhiên vừa mang
    tính xã hội, có tác động mạnh mẽ đến đời sống kinh tế, xã hội của một quốc
    gia. Đây là dấu hiệu đặc trưng của thời đại, nó đánh dấu sự thành công của
    quá trình chuyển đổi nhân khẩu học với sự kết hợp giảm nhanh, giảm mạnh
    mức chết, mức sinh, làm thay đổi cơ cấu dân số tuổi và phân bố dân số của
    từng nhóm tuổi, làm tỷ lệ NCT tăng lên trong cơ cấu dân số [42].

    4
    Nhịp độ già hoá dân số ở nước ta trong Thập niên 90 của Thế kỷ XX và
    10 năm đầu của Thế kỷ XXI đã nhanh hơn nhiều so với những năm 1980 (từ
    25% lên 33% và 35%), cao hơn nhịp độ tăng dân số (dân số tăng 20% và dân
    số già tăng 25% giai đoạn 1979-1989; c n giai đoạn 1989-1999 các tỷ lệ tương
    ứng là 18% và 33%). Nếu nhìn toàn bộ thời kỳ từ 1979 đến 2007, dân số tăng
    lên 1,61 lần c n dân số cao tuổi tăng 2,17 lần. Tốc độ già hoá dân số nước ta
    khoảng 35 năm với tỷ lệ NCT tăng gấp đôi từ 5,8% (1989) lên 14% (2025) [4].
    Chỉ số già hóa là một trong những chỉ tiêu quan trọng biểu thị xu hướng
    già hóa của dân số. Chỉ số này được tính bằng tỷ số giữa dân số từ 60 tuổi trở
    lên so với dân số dưới 15 tuổi tính theo phần trăm. Khi chỉ số này lớn hơn 100
    tức là dân số cao tuổi lớn hơn dân số trẻ em. Theo Tổng Điều tra biến động
    Dân số và Kế hoạch hoá gia đình (01/4/2012), chỉ số già hóa tăng từ 18% năm
    1989 lên 24,3% năm 1999, 37,9% năm 2010 và 42,7% năm 2012 (cao hơn mức
    trung bình của khu vực Đông Nam Á (30%)) [4].
    Già hóa dân số trong bối cảnh trình độ phát triển kinh tế, xã hội c n thấp
    là một thách thức vô cùng to lớn. Mọi quốc gia đều phải đối mặt và giải quyết
    hàng loạt các vấn đề liên quan đến NCT như: dịch vụ CSSK NCT ngày càng
    gia tăng, sự tăng trưởng kinh tế phải đáp ứng đủ nhu cầu gia tăng nhóm phụ
    thuộc trong khi nhóm lao động lại giảm mạnh. Nói cách khác, nếu không chuẩn
    bị một cách kỹ lưỡng ngay từ bây giờ thì dân số già không khỏe mạnh và
    không có thu nhập bảo đảm cuộc sống sẽ buộc chính phủ phải có những khoản
    chi tiêu rất lớn và điều này sẽ tác động tiêu cực đến ngân sách nhà nước cũng
    như sự bền vững tài chính dài hạn của toàn bộ nền kinh tế.
    1.1.2.2. Người cao tuổi trên thế giới
    Theo qui ước của Liên Hợp Quốc, một quốc gia có tỷ lệ người cao tuổi
    từ 10% trở lên thì quốc gia đó được coi là dân số già. Pháp đạt tỷ lệ này từ năm
    1935, Thụy Điển năm 1950. Thời gian để một nước tăng tỷ lệ người cao tuổi từ
    7% lên 10% đạt ngưỡng dân số già rất khác nhau: Pháp 70 năm, Mỹ 35 năm,

    5
    Nhật Bản 15 năm. Như vậy, tốc độ già hóa dân số song song với tốc độ phát
    triển kinh tế, xã hội, tốc độ phát triển của mỗi quốc gia càng nhanh thì tốc độ
    già hóa dân số càng mạnh [20], [74].
    Giữa các khu vực cũng có sự chênh lệch rõ rệt về số lượng và tỷ lệ NCT.
    Tỷ lệ NCT cao nhất ở các nước đã phát triển, chẳng hạn Thụy Điển khoảng
    22% gấp hơn 3 lần Ấn Độ (7,2%) nhưng số lượng NCT nhiều nhất lại tập trung
    ở các nước đang phát triển. Trong số 1.120 triệu NCT có tới 805 triệu NCT
    sống ở các nước nghèo (chiếm tới 80% NCT của thế giới) (Bảng 1.1) [20].
    Bảng 1.1. Số lượng và tỷ lệ người cao tuổi trên thế giới (1950-2050)
    Đơn vị: triệu người
    Chỉ tiêu 1950 1975 2000 2025 2050
    Số dân 2500 3900 6080 8000 9150
    Số người cao tuổi 214 350 590 1120 2000
    Tỷ lệ NCT (%) 8,6 9,1 9,7 14,0 23,0
    Số NCT ở các nước giàu 95 166 230 315

    400
    Số NCT ở các nước nghèo 119 180 360 805

    1600


    Nguồn: Liên Hợp Quốc. World Population Prospects. The 2011 Revision
    Số liệu bảng 1.1 cũng cho thấy: sau 50 năm (1950 - 2000), dân số tăng
    khoảng 2,43 lần, số NCT tăng 2,76 lần và số NCT ở các nước đang phát triển
    tăng lên tới 3,03 lần. Nếu 50 năm qua, người ta thường nói tới “bùng nổ dân
    số” thì phải nói “siêu bùng nổ người cao tuổi”, đặc biệt là ở các nước nghèo
    [20], [45]. Năm 2002, cứ 10 người dân thì có 1 NCT, ước tính đến năm 2050
    cứ 5 người thì có 1 NCT. Phần lớn NCT là nữ (55%), trong đó nhóm từ 75 tuổi
    trở lên nữ chiếm 65% và tập trung chủ yếu tại các quốc gia phát triển [20].
    Tỷ lệ người cao tuổi ở khu vực nông thôn và thành thị cũng có sự khác
    nhau. Năm 1975, tỷ lệ NCT ở nông thôn chỉ là 7,7% thấp hơn so với thành thị là
    10,1%. Với xu hướng đô thị hóa ngày càng tăng trên toàn cầu, đặc biệt là ở các
    nước đang phát triển, dự báo trong 20 năm tới số lượng NCT ở thành thị sẽ lên

    6
    tới 318 triệu người, vượt xa so với nông thôn (khu vực này chỉ c n 257 triệu
    NCT). Đáng chú ý hơn cả là số người trong nhóm tuổi già nhất (trên 80 tuổi) sẽ
    tăng nhanh nhất từ 86 triệu năm 2005 lên 394 triệu năm 2050 [42]. Tốc độ già
    hóa nhanh chóng ở các nước đang phát triển dẫn tới những thay đổi về cấu trúc
    và vai tr của gia đình. Hiện tượng lớp trẻ dồn về thành phố tìm việc để lại người
    già ở nông thôn, từ đó làm cho phụ nữ trở thành lao động chính và dẫn tới tình
    trạng ngày càng có ít người chăm sóc người cao tuổi khi già yếu tại gia đình.
    1.1.2.3. Người cao tuổi Việt Nam
    Cùng với xu hướng chung của thế giới, quá trình già hoá dân số ở Việt
    Nam cũng đang diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh, qui mô ngày càng lớn.
    Quá trình già hóa dân số ở Việt Nam là sẽ “già ở nhóm già nhất”, nghĩa là tốc
    độ tăng và số lượng người cao tuổi ở độ tuổi cao nhất (từ 80 tuổi trở lên) sẽ
    ngày càng lớn. Số liệu từ bốn cuộc Tổng điều tra Dân số và Nhà ở giai đoạn
    1979 - 2009 cho thấy (Bảng 1.2), tỷ lệ NCT ở nhóm tuổi thấp nhất (từ 60-69)
    tăng chậm, trong khi tỷ lệ NCT ở nhóm cao tuổi trung bình (70-79) và già
    nhất (80+) có xu hướng tăng nhanh hơn. Dự báo của GSO (2010) cho giai
    đoạn 2009 - 2049, khi Việt Nam bước vào giai đoạn dân số “già” cũng là lúc
    nhóm dân số cao tuổi nhất tăng với tốc độ cao nhất [66], [68].
    Bảng 1.2. Dân số Việt Nam “già ở nhóm già nhất”

    Nhóm tuổi
    (% tổng
    dân số)
    1979 1989 1999 2009 2019 2029 2039 2049
    60-64 2,28 2,40 2,31 2,26 4,29 5,28 5,80 7,04
    65-69 1,90 1,90 2,20 1,81 2,78 4,56 5,21 6,14
    70-74 1,34 1,40 1,58 1,65 1,67 3,36 4,30 4,89
    75-79 0,90 0,80 1,09 1,40 1,16 1,91 3,28 3,87
    80+ 0,54 0,70 0,93 1,47 1,48 1,55 2,78 4,16

    Nguồn: Tổng điều tra dân số 1989, 1999 và 2009 và dự báo dân số của GSO (2010)

    7
    So với các quốc gia khác trên thế giới, thậm chí với nhiều nước phát
    triển hoặc có mức thu nhập bình quân đầu người cao hơn, tốc độ già hóa dân
    số Việt Nam khá cao. Cụ thể, số năm để tỷ lệ dân số từ 65 tuổi trở lên của
    Việt Nam tăng từ 7% lên 14% tổng dân số (hay thời gian để dân số quá độ từ
    giai đoạn “già hóa” sang “già”) là ngắn hơn nhiều nước: Pháp mất 115 năm,
    Thụy Điển mất 85 năm, Mỹ mất 69 năm, Nhật Bản và Trung Quốc mất 26
    năm, trong khi Việt Nam chỉ mất 20 năm. Với điều kiện kinh tế, xã hội phát
    triển như hiện nay thì đây thực sự là thách thức lớn cho Việt Nam trong việc
    thích ứng với một dân số “già hóa” nhanh [20], [68].
    Cơ cấu người cao tuổi hiện nay cho thấy, ở Việt Nam đa phần NCT sống
    ở nông thôn, là nông dân và làm nông nghiệp dù rằng quá trình đô thị hóa đang
    diễn ra nhanh chóng ở Việt Nam. Tổng điều tra Dân số năm 2009 cho thấy có
    72,9% NCT sống ở nông thôn. Trong số NCT, chỉ có khoảng 16 - 17% được
    hưởng lương hưu hoặc mất sức, hơn 10% hưởng trợ cấp người có công với
    nước. Như vậy, c n trên 70% NCT hiện nay sống bằng lao động của mình,
    bằng nguồn hỗ trợ của con cháu và gia đình [20]. Trong khi đó, ở nông thôn
    ruộng đất ít, năng suất, thu nhập thấp, ít có tiết kiệm ph ng khi bất trắc tuổi già.
    Thực tế này đ i hỏi chính sách đối với NCT cần hướng đến nông thôn, cần xây
    dựng và triển khai chính sách bảo hiểm xã hội cho nông dân, đẩy mạnh nghiên
    cứu các hình thức hoạt động phù hợp cho NCT ở nông thôn, đặc biệt NCT cô
    đơn, không nơi nương tựa, người cao tuổi có hoàn cảnh khó khăn
    Xét theo vùng kinh tế - xã hội, người cao tuổi nước ta phân bố không
    đồng đều, tập trung ở 3 vùng có đông dân cư nhất trong cả nước là đồng
    bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long và Bắc Trung bộ. Đồng bằng
    sông Hồng có số lượng người cao tuổi cao nhất trong cả nước (chiếm
    25,41% số NCT), tiếp đến là đồng bằng sông Cửu Long (chiếm 20,95%) và
    Bắc Trung bộ 15,2% (Bảng 1.3) [68].

    8
    Bảng 1.3. Phân bố dân số cao tuổi theo khu vực và vùng


    1992/93 1997/98 2002 2004 2006 2008
    Vùng
    ĐB sông Hồng 23,95 23,78 25,35 25,78 25,64 25,41
    Đông Bắc 13,11 13,73 10,89 10,46 10,03 10,39
    Tây Bắc 1,83 1,73 2,13 1,93 1,71 1,43
    Bắc Trung Bộ 13,00 14,48 13,87 12,59 12,92 15,2
    Nam Trung Bộ 10,89 8,68 9,79 9,93 9,62 8,64
    Tây Nguyên 2,03 1,85 4,01 3,4 3,82 3,07
    Đông Nam Bộ 13,61 15,56 14,0 15,37 15,63 14,92
    ĐB sông Cửu Long 21,52 20,20 19,94 20,55 20,63 20,95
    Khu vực
    Nông thôn 77,73 76,06 76,83 73,33 72,30 72,49
    Thành thị 22,27 23,94 23,17 26,67 27,70 27,51

    Nguồn: Điều tra mức sống dân cư (hộ gia đình) - 2008
    Có thể nói, mô hình biến động dân số của Việt Nam khá giống Trung
    Quốc, Hàn Quốc và một số quốc gia khác. Đây là những nước có dân số
    chuyển từ loại trẻ sang già và dự báo đến giữa thế kỷ XXI, dân số Việt Nam
    c n ở mức già hơn cơ cấu dân số chung của thế giới. Sự gia tăng dân số NCT
    sẽ dẫn đến nhiều hệ luỵ, điều đó đang là một thách thức lớn đặt ra cho gia
    đình và toàn xã hội. Vì vậy, cần phải đẩy mạnh hơn nữa việc nghiên cứu quá
    trình già hóa từ đó tiên lượng tình trạng và chủ động nghiên cứu kinh nghiệm
    của các nước nhằm nâng cao chất lượng sống cho NCT ở Việt Nam.
    1.1.3. Các bệnh thường gặp ở người cao tuổi
    Thách thức lớn nhất đối với việc chăm sóc sức khỏe người cao tuổi
    hiện nay là mô hình và nguyên nhân bệnh tật của NCT đang thay đổi nhanh
    chóng khiến cho gánh nặng “bệnh tật kép” ngày càng rõ. Một mặt, NCT
    đang phải chịu nhiều bệnh do lão hóa gây ra; mặt khác, NCT cũng phải chịu
    các bệnh phát sinh do thay đổi lối sống dưới tác động của quá trình tăng

    9
    trưởng và phát triển kinh tế. Những bệnh thường gặp ở người cao tuổi là các
    bệnh mạn tính như: bệnh mạch vành, tăng huyết áp (THA), đột quỵ, đái tháo
    đường, ung thư, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính, thoái hóa khớp, loãng xương,
    sa sút trí tuệ, trầm cảm, mù l a và giảm thị lực; các bệnh này là nguyên nhân
    chính gây giảm sút sức khoẻ ở người cao tuổi [95].
    * Nghiên cứu trên thế giới
    Khi các quốc gia tiến hành công nghiệp hóa, việc thay đổi lối sống và
    việc làm là nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi về mô hình bệnh tật. Ở các quốc
    gia phát triển, mối quan tâm hàng đầu về sức khỏe là ph ng và điều trị các
    bệnh mãn tính (tim mạch, ung thư, tiểu đường, rối loạn chuyển hóa,
    Alzheimer), tăng hiệu quả chăm sóc nội trú, cung cấp dịch vụ chăm sóc sức
    khỏe ban đầu (CSSKBĐ) có hiệu quả, dịch vụ chăm sóc dài hạn cho người
    cao tuổi [87], [96]. Trong khi các nước đang phát triển phải tiếp tục giải quyết
    các bệnh lây nhiễm, suy dinh dưỡng đồng thời phải đối phó với sự gia tăng
    nhanh chóng các bệnh không lây truyền trong điều kiện hệ thống chăm sóc
    sức khỏe c n nhiều thiếu thốn [53], [78].
    Tại các nước phát triển, tuổi già là nguyên nhân dẫn đến tình trạng tàn phế
    và các bệnh mạn tính. Những tàn phế thường gặp là giảm thị lực, giảm thính lực
    và ngã chấn thương. Trên thế giới có khoảng 180 triệu người bị tàn phế về thị
    giác, khoảng 4% NCT bị khiếm thị mà nguyên nhân chính là do đục thuỷ tinh
    thể, tăng nhãn áp, thoái hoá điểm vàng và bệnh võng mạc do đái tháo đường.
    Người cao tuổi cũng dễ bị mắc các bệnh do rối loạn chuyển hóa. Nghiên cứu của
    Lai S.W ở 1.123 NCT (>65 tuổi) thấy hàm lượng acid uric trung bình là 7.4 ±
    1,6mg/dl ở nam giới và 6,3 ±1,6 mg/dl ở nữ giới. Các yếu tố có liên quan với
    tăng acid uric máu là huyết áp tâm trương, BMI, cholesterol, triglyccicd và
    creatinin máu [82]. Nhiều nghiên cứu khác cũng cho thấy các yếu tố như thái độ
    hành vi, lối sống ít vận động, dinh dưỡng không hợp lý, thói quen hút thuốc lá và
    uống rượu cũng góp phần ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của NCT.

    10
    * Nghiên cứu ở Việt Nam
    Mô hình bệnh tật của người cao tuổi Việt Nam là mô hình chuyển từ
    bệnh lây nhiễm sang bệnh mạn tính, không lây nhiễm. Đây đang là một thách
    thức lớn vì các bệnh không lây nhiễm thường có thời gian tiềm tàng kéo dài với
    các tình trạng tiền bệnh như thừa cân, béo phì, tăng huyết áp, rối loạn glucose
    máu và một số rối loạn chuyển hóa khác.
    Bệnh không lây nhiễm có chung các yếu tố nguy cơ, các yếu tố này
    được chia làm 3 nhóm: các yếu tố về hành vi, lối sống (thói quen hút thuốc,
    lạm dụng rượu bia, chế độ dinh dưỡng không hợp lý (ăn ít rau, nhiều thịt .),
    thói quen ít vận động; các yếu tố về môi trường (môi trường tự nhiên, môi
    trường chính trị, xã hội, kinh tế); các yếu tố nguy cơ không thay đổi được
    (tuổi, giới tính, chủng tộc .) [36], [53]. Điều đáng nói là nguy cơ mắc các
    bệnh không lây nhiễm tăng dần theo tuổi do sự phơi nhiễm trong một thời
    gian dài các bộ phận chức năng của cơ thể và giảm khả năng hệ thống miễn
    dịch. Năm 1996, bệnh lây nhiễm chiếm tỷ lệ mắc là 37%, trong đó chết là
    33,0%; bệnh không lây nhiễm theo thứ tự là 50,0% và 43,0%; đến năm
    2005, bệnh lây nhiễm giảm c n 25,0% và 16,0%; c n các bệnh không lây
    nhiễm lại tăng cao 62,0%, trong đó tỷ lệ chết là 61,0% [36]. Vì vậy, đối với
    người cao tuổi Việt Nam, bệnh không lây nhiễm lại càng trở nên nghiêm
    trọng hơn và việc điều trị là rất tốn kém do bệnh thường chỉ được phát hiện
    ở giai đoạn muộn.
    Nghiên cứu Phạm Thắng và Đỗ Thị Khánh Hỷ (2009) [53] chỉ ra rằng
    nguy cơ khuyết tật của người cao tuổi ở Việt Nam cũng rất cao, trong đó khuyết
    tật thường gặp là mất thị lực và thính lực. Tình trạng này có thể khiến cho người
    cao tuổi bối rối, tự ti và giảm giao tiếp xã hội. Xét theo độ tuổi, kết quả từ Tổng
    Điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009 cho thấy tỷ lệ khuyết tật của người cao tuổi
    tăng lên khi tuổi cao hơn (Bảng 1.5) [66].

    11
    Bảng 1.5. Tỷ lệ khuyết tật ở người cao tuổi


    Các khuyết tật
    Không
    khó khăn
    Khó khăn
    Rất
    khó khăn
    Không
    thể
    Nhìn (% theo độ tuổi)
    60-69 80,5 17,9 1,3 0,3
    70-79 65,2 30,5 3,7 0,7
    80+ 45,3 41,6 10,9 2,3
    Nghe (% theo độ tuổi)
    60-69 89,6 9,1 1,1 0,2
    70-79 74,4 21,8 3,4 0,5
    80+ 49,6 37,1 11,5 1,8
    Ghi nhớ (% theo độ tuổi)
    60-69 89,0 9,7 1,1 0,3
    70-79 74,7 21,5 3,1 0,7
    80+ 51,2 35,4 10,8 2,5


    Nguồn: Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009
    Nghiên cứu của Đàm Hữu Đắc và cộng sự (2010) [31] cho thấy 95%
    người cao tuổi có bệnh và chủ yếu là các bệnh như: xương khớp (40,62%); tim
    mạch và huyết áp (45,6%); tiền liệt tuyến (63,8%); rối loạn tiểu tiện (35,7%) và
    phổi phế quản tắc nghẽn mãn tính (12,6%). Những bệnh tật phát sinh do thay đổi
    lối sống như sa sút tâm thần và trầm cảm lại có xu hướng tăng và tỷ lệ người cao
    tuổi mắc các bệnh này tăng lên khi tuổi cao (Bảng 1.6) [53].
    Bảng 1.6. Tỷ lệ một số bệnh tâm thần thường gặp của người cao tuổi

    Nhóm tuổi
    60 - 74 >= 75
    Sa sút tâm thần n (%)
    24/617
    (3,9%)
    12/123
    (9,8%)
    Trầm cảm n (%)
    7/846
    (0,8%)
    7/309
    (2,3%)


    Nguồn: Phạm Thắng và Đỗ Thị Khánh Hỷ (2009)

    12
    1.1.4. Nhu cầu chăm sóc sức khỏe người cao tuổi
    Nhu cầu là một khái niệm mang tính khách quan, có thể được hiểu là
    những thiếu hụt về một vấn đề nào đó. Nhu cầu chăm sóc sức khỏe là người
    bệnh thực sự mắc bệnh hoặc cần CSSK, cần được sử dụng các DVYT thích
    hợp để giải quyết vấn đề sức khỏe đó. Nhu cầu hàng đầu đối với CSSK là
    ph ng bệnh, phát hiện sớm bệnh, chữa bệnh kịp thời để tránh hoặc kéo dài
    thời gian chuyển sang mạn tính, di chứng. Thực hiện công tác phục hồi chức
    năng, điều dưỡng, chăm sóc cả tinh thần và thể chất nhằm giúp người bệnh
    h a nhập trở lại với sinh hoạt bình thường của cộng đồng xã hội [41].
    Chăm sóc sức khỏe cho NCT là ph ng, chống sự già hóa quá sớm, đề
    ph ng và chữa trị các bệnh tuổi già sinh ra bằng nhiều biện pháp khác nhau qua
    đó nhằm cải thiện tình trạng sức khỏe (về cả thể xác lẫn tinh thần), giảm thiểu
    các bệnh mạn tính, tàn phế và tử vong khi bước vào tuổi già. Nhu cầu CSSK ở
    NCT khác với những nhóm tuổi khác. Các nhu cầu chăm sóc của NCT gồm:
    CSSK tâm thần, tâm lý, phục hồi về thính lực và thị lực, chăm sóc vệ sinh răng
    miệng, dinh dưỡng đầy đủ, hợp lý và an toàn, phục hồi chức năng, nhà ở, môi
    trường sống và ph ng, chống giảm các yếu tố nguy cơ [1]. Nhu cầu CSSK là
    những yêu cầu cấp thiết của NCT không chỉ phụ thuộc vào ý muốn chủ quan
    mà c n phụ thuộc khá nhiều vào chất lượng, giá thành, mức độ bệnh, khoảng
    cách và khả năng tiếp cận với các cơ sở CSSK của từng người.
    Ở nhiều nước trên thế giới, việc chăm sóc NCT chủ yếu là do cá nhân
    NCT hoặc những người chăm sóc không chính thức gồm người thân, bạn bè
    và làng xóm (chủ yếu là phụ nữ). Ngay cả khi đã có các dịch vụ chăm sóc
    chính thức phù hợp thì chăm sóc không chính thức vẫn đóng vai tr chủ đạo.
    Tại các nước đang phát triển, NCT nghèo, cô đơn, không nơi nương tựa, NCT
    sống ở nông thôn, vùng xa trung tâm rất ít có cơ hội hoặc không thể tiếp cận
    được với các dịch vụ CSSK cần thiết [23]. Mặt khác, ở nhiều quốc gia xu
    hướng dân số không kết hôn hoặc kết hôn nhưng sinh con muộn lại đang có
    chiều hướng gia tăng dẫn đến mức sinh giữ ở mức thấp hơn mức sinh thay

    13
    thế. Số con trung bình của lớp người cao tuổi tương lai giảm đi rõ rệt, qua đó
    góp phần làm giảm sự hỗ trợ từ chính phía gia đình họ.
    Ở Việt Nam, nhu cầu CSSK của người cao tuổi là rất lớn (chiếm 84,4%)
    trong khi điều kiện tự thân của người cao tuổi c n rất hạn chế [42]. Tình trạng
    NCT sống không có vợ/chồng chiếm tỷ lệ cao (14%), trong đó NCT nữ cô đơn
    cao gấp 5,44 lần so với NCT nam; phụ nữ cao tuổi sống ly hôn, ly thân gấp 2,2
    lần so với nam giới [29], [54]. Việc phải sống một mình là điều kiện rất bất lợi
    đối với NCT, bởi gia đình luôn là chỗ dựa cơ bản cho mỗi thành viên khi về già.
    Về tình trạng kinh tế, thu nhập của NCT là rất thấp, 70% NCT không có tích lũy
    vật chất. Tình hình càng trở nên khó khăn đối với NCT sống ở khu vực nông
    thôn và miền núi. Kết quả điều tra của Viện Lão khoa Quốc gia tại 3 tỉnh/thành:
    Hà Nội, Thừa Thiên Huế và Bà Rịa - Vũng Tàu cho thấy, trong nhiều lý do
    khiến NCT không được KCB, lý do chính là không đủ khả năng kinh tế (45,3%),
    điều kiện đi lại khó khăn (17,3%), y tế địa phương không đáp ứng được (16,5%),
    lý do khác (20,9%) [53], [72]. Nhu cầu KCB giữa 2 khu vực thành thị và nông
    thôn không có nhiều khác biệt song ở khu vực nông thôn một tỷ lệ không nhỏ
    nhu cầu KCB chưa được đáp ứng (Bảng 1.4). Tỷ lệ NCT điều trị 1 lần trong 12
    tháng chiếm 29,6%, điều trị 2 lần chiếm 28,7%, điều trị 3 lần chiếm 15,8%, điều
    trị 4 lần chiếm 9,3% và điều trị 5 lần trở lên chiếm 16,7% [45].
    Bảng 1.4. Số lần khám chữa bệnh trong vòng 12 tháng qua của người cao tuổi

    Số lần điều trị
    trong 12 tháng
    Khu vực Chung
    Thành thị Nông thôn
    Tần số %
    Tần số % Tần số %
    1 lần 71 37,4% 62 23,8% 133 29,6%
    2 lần 51 26,8% 78 30,0% 129 28,7%
    3 lần 30 15,8% 41 15,8% 71 15,8%
    4 lần 11 5,8% 31 11,9% 42 9,3%
    ≥ 5 lần 27 14,2% 48 18,5% 75 16,7%
    Tổng số 190 100,0% 260 100,0% 450 100,0%

    14
    Nhu cầu chăm sóc sức khỏe ở NCT không chỉ là đơn thuần là những
    chăm sóc hằng ngày như nuôi dưỡng, chăm sóc khi ốm đau, NCT c n có nhu
    cầu rất cao đó là được chăm sóc về tinh thần. Theo Nguyễn Đình Cử, về mặt tinh
    thần, có 13% NCT gặp trắc trở, 60% thấy bình thường, chỉ có 20% cảm thấy
    thoải mái [20]. Ngày nay, cùng với sự phát triển của kinh tế, xã hội, gia đình
    nhiều thế hệ bắt đầu có xu hướng chuyển thành gia đình hạt nhân. Hiện tượng
    này thường gặp ở khu vực thành thị, nhưng hiện tại cũng đã trở nên phổ biến ở
    khu vực nông thôn. Mặt khác, dưới tác động của nền kinh tế thị trường, tốc độ
    đô thị hóa ngày càng tăng nhanh, người dân sống ở vùng nông thôn có xu hướng
    di dân vào thành phố để tìm kiếm việc làm đặc biệt là những thanh niên trẻ làm
    quy mô gia đình giảm, phụ nữ trở thành lao động chính, dẫn tới sự hỗ trợ từ phía
    gia đình trong CSSK NCT là rất hạn chế. Đây là một gánh nặng đối với NCT và
    làm cho nhu cầu chăm sóc về tinh thần của NCT từ con cái không được đáp ứng
    như mong đợi. Vì vậy, nhà nước, gia đình, cộng đồng cần quan tâm hơn nữa, cải
    thiện đời sống vật chất của NCT nhưng đồng thời phải chăm sóc hơn về mặt tinh
    thần thông qua những việc làm cụ thể, thiết thực như giáo dục cho con cháu biết
    quan tâm, kính trọng ông bà, cha mẹ, xây dựng mô hình CSSK toàn diện cho
    NCT, đảm bảo cho NCT được chăm sóc tốt hơn ngay tại nơi họ sinh sống.
    1.1.5. Tiếp cận dịch vụ khám chữa bệnh của người cao tuổi
    1.1.5.1. Khái niệm về tiếp cận
    Trong y tế, khái niệm tiếp cận có thể được xem là khả năng đến và tiếp
    xúc được các dịch vụ CSSK, nơi đáp ứng việc khám chữa bệnh của người cao
    tuổi. Khả năng tiếp cận DVYT hoàn toàn khác việc sử dụng dịch vụ y tế. Việc
    có sử dụng DVYT hay không phụ thuộc vào mức độ bệnh tật, sự sẵn có của
    DVYT và nhiều yếu tố khác. Tiếp cận bao gồm cả 2 phía, phía người cao tuổi
    và dịch vụ y tế, phụ thuộc vào nhiều yếu tố: không gian, thời gian, chi phí, sự
    sẵn có, chất lượng dịch vụ, văn hóa xã hội và con người [2].

    15
    - Không gian: mặc dù Đảng và Nhà nước đã hết sức quan tâm tới tuyến
    y tế cơ sở nhưng do điều kiện kinh tế nên hầu hết các TYT xã vẫn chưa có
    khu vực KCB dành riêng cho NCT cũng như quy định nhiệm vụ riêng trong
    KCB cho người cao tuổi. Tuy nhiên, mỗi TYT cũng đã cố gắng trong việc tạo
    ra một không gian thân thiện, gần gũi đối với NCT nhằm giúp người cao tuổi
    dễ dàng hơn trong việc tiếp cận với các dịch vụ CSSK [11], [14].
    - Khoảng cách và thời gian: đây là những yếu tố quyết định việc có hay
    không tiếp cận các dịch vụ CSSK của người cao tuổi [24]. Ngày nay, với
    phương tiện giao thông và thông tin liên lạc ngày càng hiện đại, NCT có thể
    tiếp cận đến các cơ sở y tế nhanh chóng và thuận tiện hơn, thời gian được rút
    ngắn đến mức tối thiểu, bệnh tật được phát hiện sớm và xử trí kịp thời.
    - Chi phí: như đắt, rẻ, có khả năng chi trả hay không có khả năng chi
    trả. Đây là yếu tố quan trọng nhất, điều mà người sử dụng DVYT rất quan
    tâm, có tính chất quyết định trong việc lựa chọn dịch vụ, đặc biệt là những
    người có thu nhập thấp. Họ sẽ đến cơ sở y tế nào có giá thành rẻ mà chất
    lượng dịch vụ lại đảm bảo và tin cậy. Chi phí KCB bao gồm chi phí trực tiếp
    (chi phí trực tiếp cho khám và điều trị tại cơ sở y tế) và những chi phí gián
    tiếp (chi phí cho thuốc ngoài cơ sở y tế, cho ăn uống, đi lại, bồi dưỡng sức
    khỏe ). Pháp lệnh NCT quy định NCT từ 80 tuổi trở lên được Nhà nước bảo
    đảm chi phí KCB thông qua thẻ bảo hiểm y tế [69]. Tuy nhiên, phần lớn
    người cao tuổi từ 60 - 80 tuổi vẫn chưa có một chế độ ưu đãi riêng nào về vấn
    đề này. Vì vậy, chi phí KCB cho NCT dưới 80 tuổi cũng là vấn đề cần được
    quan tâm [31]. Đặc biệt, những người cao tuổi sống ở khu vực nông thôn, có
    nguồn thu nhập thấp và chủ yếu là từ sản xuất nông nghiệp, rất nhiều người
    trong số đó không đủ tiền để đến các cơ sở y tế khám chữa bệnh.
    - Sự sẵn có và chất lượng dịch vụ: trình độ chuyên môn, phương tiện kỹ
    thuật, trang thiết bị . là những điểm mấu chốt trong việc lựa chọn dịch vụ của

    16
    NCT. Mong muốn chung của NCT là được thầy thuốc giỏi, có kinh nghiệm KCB
    và CSSK. Vì vậy, để nâng cao chất lượng dịch vụ CSSK cho NCT tại tuyến y tế
    cơ sở cần phải quan tâm hơn nữa tới việc đào tạo đội ngũ cán bộ y tế, đặc biệt là
    cán bộ chuyên ngành lão khoa cùng với đầu tư cơ sở hạ tầng, trang thiết bị.
    - Văn hóa xã hội: Đây là yếu tố liên quan đến thái độ ứng xử và khả
    năng giao tiếp trong CSSK cho NCT, thái độ của các thành viên trong gia
    đình, tâm lý ngại phiền hà con cái, muốn được chết ở nhà là những yếu tố
    ảnh hưởng không nhỏ đến việc lựa chọn cơ sở KCB của người cao tuổi. Ở
    nước ta đa phần người cao tuổi sống ở nông thôn nên số NCT phụ thuộc kinh
    tế vào con cái là tương đối lớn. Tâm lý ngại phiền hà con cái (về cả kinh tế
    và thời gian) thường gặp ở người cao tuổi nữ. Đây cũng là đặc điểm mang
    tính văn hóa của phụ nữ Việt Nam nói riêng và Á Đông nói chung.
    - Yếu tố con người: trong đó vai tr của bình đẳng giới cũng như trình độ
    học vấn, hiểu biết về sức khỏe là những yếu tố quyết định hành vi tìm kiếm
    DVYT của NCT [85]. Vai tr thấp trong xã hội cũng là yếu tố làm hạn chế tính
    tự chủ trong việc ra quyết định, bao gồm cả quyết định CSSK cho chính bản
    thân NCT. Bên cạnh đó, vị trí thấp trong xã hội làm phụ nữ gặp nhiều khó khăn
    trong việc tìm kiếm việc làm và khả năng chi trả cho các DVYT cũng bị hạn
    chế, họ không thể tự chi trả được nếu không có sự hỗ trợ từ người khác. Vị trí
    thấp kém làm ảnh hưởng tới khả năng tiếp cận DVYT do họ không có quyền tự
    quyết định. Việc lựa chọn nơi KCB thường do chồng hoặc những thành viên
    chủ chốt khác trong gia đình quyết định. Thời gian chờ đợi, sự bất đồng về
    ngôn ngữ giữa nhân viên y tế và người bệnh cũng là những rào cản trong tiếp
    cận DVYT của người dân nói chung cũng như người cao tuổi nói riêng [84].
    Bên cạnh các yếu tố trên, c n tuỳ thuộc vào từng trường hợp bệnh lý và
    thói quen của NCT khi lựa chọn dịch vụ CSSK, đặc biệt là những địa điểm
    mà NCT thường sử dụng và có niềm tin từ trước. Như vậy, việc tiếp cận dịch

    17
    vụ CSSK của người cao tuổi c n chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi niềm tin mà
    NCT đã tạo lập trong suốt cuộc đời đối với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe.
    1.1.5.2. Tiếp cận dịch vụ y tế của người cao tuổi
    Hiện nay, nhiều mô hình CSSK cho NCT trên thế giới đã được triển khai
    nhằm tăng cường sự tiếp cận và sử dụng DVYT của người dân như: mô hình
    chăm sóc và KCB tại Anh, Pháp, Mỹ, Nga, mô hình bác sỹ gia đình . Hệ thống
    mạng lưới dịch vụ sơ cấp cứu tại nhà, tại nơi xảy ra tai nạn khá hoàn chỉnh và
    hiện đại với đầy đủ các loại phương tiện vận chuyển, thông tin, điện thoại liên
    lạc được trang bị rộng khắp, giao thông thuận lợi. Nhờ đó, người dân có thể tiếp
    cận nhanh các DVYT, người bệnh được cấp cứu kịp thời [92], [94], [97].
    Tại Việt Nam, mạng lưới y tế cơ sở gồm y tế thôn, bản, xã, phường,
    quận, huyện, thị xã là tuyến y tế trực tiếp gần dân nhất, nơi thực hiện công tác
    chăm sóc sức khoẻ ban đầu (CSSKBĐ) cho người dân với chi phí thấp nhất.
    Tại khu vực đồng bằng trung du, các cơ sở y tế thường ở vị trí trung tâm của
    khu vực dân cư, với bán kính khoảng 5 km, đi lại thuận tiện, từ đó đã tạo điều
    kiện người dân dễ dàng tiếp cận khi có nhu cầu [15]. Tuy nhiên, người cao tuổi
    nước ta vẫn c n thiếu cơ hội tiếp cận dịch vụ y tế. Tỷ lệ người cao tuổi sử dụng
    bảo hiểm y tế thấp, hơn 30% NCT không có bất kỳ một hình thức bảo hiểm y
    tế nào. Tỷ lệ NCT có bảo hiểm y tế tự nguyện mới đạt khoảng 50%. Mặc dù
    Luật Bảo hiểm y tế đã ban hành nhưng vẫn c n khoảng ¼ NCT từ 80 tuổi trở
    lên chưa được hưởng bảo hiểm y tế miễn phí, gần một nửa NCT không đủ tiền
    chi trả các dịch vụ CSSK. Hơn 40% số họ vẫn phải tự chi trả cho việc điều trị
    và thuốc men cần thiết. Vì vậy, một trong những rào cản khiến NCT không
    được tiếp cận dịch vụ y tế là không có tiền và không có người trợ giúp đưa tới
    cơ sở y tế. Mặt khác, cả nước có rất ít bệnh viện có khoa lão khoa, thậm chí
    mới có hai cơ sở chuyên khoa điều trị về lão khoa. Nhận thức về NCT của xã
    hội chưa đúng tầm trong khi Việt Nam đã chính thức bước vào giai đoạn già
    hóa dân số. Hơn 50% người cao tuổi được phỏng vấn chỉ biết về quyền được

    18
    trợ cấp, mừng thọ. C n hiểu biết về các quyền lợi khác như ưu tiên sử dụng
    DVYT, giảm giá các dịch vụ công cộng, trợ giúp pháp lý, miễn thuế thu nhập,
    ưu tiên vay vốn lãi suất thấp khá khiêm tốn [68].
    Nghiên cứu của Trương Việt Dũng ở 5579 hộ gia đình trên toàn quốc
    (2000-2001), thời gian trung bình đến trạm y tế xã là 13,6 phút, đến bệnh viện
    là 43,9 phút, đến thầy thuốc tư là 18,4 phút, trong đó nhóm người nghèo thời
    gian đến bệnh viện (62,5 phút) gấp đôi nhóm giàu trung bình 35,2 phút [28].
    Ngày nay, do điều kiện kinh tế phát triển, có trên 65% số hộ có xe máy, 70,6%
    hộ có tivi và 6,5% số hộ có điện thoại, đó là những yếu tố cần thiết làm dễ sự
    tiếp cận của người bệnh với cơ sở y tế. Như vậy, với chủ trương đa dạng hoá
    các loại hình tổ chức sức khỏe, hoạt động y tế tư nhân ngày càng được mở rộng
    với nhiều hình thức thích hợp, tạo điều kiện thuận lợi giúp người dân dễ dàng
    hơn trong việc tiếp cận các DVYT, bổ sung nguồn nhân viên y tế CSSK tại
    nhà, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao trong CSSK của nhân dân.
    1.1.6. Sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe ở người cao tuổi
    1.1.6.1. Khái niệm sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe người cao tuổi
    Sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe là khả năng và mức độ được cơ sở y
    tế (CSYT) cung ứng các dịch vụ chăm sóc, phát hiện và điều trị bệnh khác
    nhau theo nhu cầu và mức độ bệnh của mỗi người dân khi ốm đau. Điều này
    không chỉ phụ thuộc vào ý muốn chủ quan mà c n phụ thuộc khá nhiều vào
    chất lượng, giá thành, mức độ bệnh, khoảng cách và khả năng tiếp cận của
    người dân. Các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến sử dụng dịch vụ CSSK là kinh
    tế, người sử dụng dịch vụ và người cung cấp dịch vụ [2], [26].
    - Kinh tế: Đây là yếu tố đóng vai tr quyết định nhất đối với người có
    thu nhập thấp [79]. Kết quả nghiên cứu tại Nam Sách (Hải Dương), các nhà xã
    hội học đã cho thấy 95,7% số người già có nhu cầu KCB, song 76,6% số NCT
    trả lời không có đủ tiền để đi khám chữa bệnh; chủ yếu người bệnh tự mua
    thuốc về điều trị hoặc tìm đến các thầy thuốc gần nhà (chiếm tỷ lệ 50- 65%). Số

    19
    lượng người giàu đến bệnh viện KCB gấp 1,75 lần người nghèo. Nghiên cứu
    của Nguyễn Văn Tập (2005) tại 28 xã vùng nông thôn của 3 vùng Bắc Bộ,
    Trung Bộ và Nam Bộ cho thấy chi phí trung bình một lần ốm của NCT chiếm
    khoảng 70% mức thu nhập hàng tháng. Nhóm nghèo chịu gánh nặng chi phí
    lớn, một lần ốm đã chi gấp 2,7 lần thu nhập hàng tháng, trong khi nhóm giàu
    chỉ là 0,3 lần. Nhóm nghèo nhất khi ốm thường đến TYT xã (25,%), đến bệnh
    viện (10,65%). Ngược lại nhóm thu nhập cao nhất đến trạm y tế chiếm tỷ lệ
    thấp hơn (13,51%), nhưng đến bệnh viện nhiều hơn (20,27 %) [50].
    - Người sử dụng dịch vụ: trình độ học vấn, hiểu biết về sức khỏe, phong
    tục tập quán, văn hóa xã hội, là những yếu tố quyết định hành vi tìm kiếm dịch
    vụ chăm sóc sức khỏe của người bệnh [28].
    - Người cung cấp dịch vụ: chất lượng, thái độ, thời gian phục vụ .
    Tiếp cận và sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ không luôn song hành.
    Nghĩa là, một khi đã sử dụng thì có thể bao hàm cả yếu tố tiếp cận, song tiếp
    cận không có nghĩa là phải sử dụng. Bởi vậy, việc có sử dụng dịch vụ chăm sóc
    sức khoẻ hay không lại phụ thuộc vào mức độ bệnh hiện thời, sự tác động tư
    vấn của thầy thuốc và nhiều yếu tố khác.
    1.1.6.2. Tình hình sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe ở người cao tuổi
    Nghiên cứu nhu cầu chăm sóc sức khỏe và tình hình sử dụng DVYT,
    những yếu tố tác động đến việc lựa chọn dịch vụ của NCT, giúp cho việc tổ
    chức hệ thống cung ứng DVYT phù hợp hơn và đáp ứng nhu cầu khám chữa
    bệnh của người dân. Một điều rất quan trọng là người sử dụng DVYT sẽ có
    tác động đến hoạt động của hệ thống cung ứng DVYT, chứ không phải do
    những người cung ứng DVYT quyết định.
    Tự điều trị và đến cơ sở y tế tư nhân là hình thức sử dụng DVYT phổ
    biến trong xử trí ban đầu của NCT khi bị ốm. Kết quả này có sự dao động lớn
    giữa các cuộc điều tra. Nghiên cứu của Trương Việt Dũng điều tra tại 28 xã
    nông thôn ở ngoại thành Hà Nội thấy thái độ NCT quan tâm đến bệnh tật c n

    20
    hạn chế, 1/3 cho rằng họ thường mua thuốc tự chữa hoặc ở nhà không chữa trị
    gì khi có triệu chứng bệnh/ốm. Người cao tuổi có triệu chứng bệnh/ốm không
    chữa gì và tự chữa (44,69%), đến TYT xã (17,67%), đi khám tư nhân (16,74%)
    và đến bệnh viện (15,59%). Các lý do lựa chọn dịch vụ CSSK là đến y tế xã
    chủ yếu do gần nhà (35,95%), do quen biết (30,07%), chọn bệnh viện là do
    chuyên môn tốt (50,37%), do bệnh nặng (36,3%). Lý do ở nhà chưa có sự khác
    biệt rõ giữa người nghèo và người giàu, chủ yếu cũng do suy nghĩ là bệnh nhẹ,
    không cần chữa trị; nhưng nhóm nghèo nhất có xu hướng mua thuốc tự chữa
    (35,8%) cao hơn nhóm giàu nhất (28,6%) [27].
    Tình hình sử dụng trạm y tế xã trong KCB, CSSKBĐ có sự khác nhau
    giữa các địa bàn nghiên cứu và phụ thuộc nhiều vào tình trạng có BHYT của
    NCT. Nghiên cứu của Nguyễn Đình Lân (2006) cho thấy, tỷ lệ NCT khi ốm
    đến KCB tại TYT xã/phường là 57,2%, chủ yếu là do: gần nhà, thuận tiện, tốn
    ít tiền, phục vụ tận tình, sẵn thuốc Tác giả cho rằng mức độ tiếp cận thông
    tin liên quan đến sức khỏe và một số bệnh hay gặp ở NCT là rất thấp, chỉ có
    38,7% số NCT có KSK định kỳ hàng năm [40]. Tỷ lệ sử dụng TYT xã trong
    KCB ở nghiên cứu của Trương Việt Dũng là 11-12% [28]; Dương Huy
    Lương là 22,8% [43] và của Viện Chiến lược & Chính sách Y tế (18,2%).
    Tuy nhiên, có sự khác biệt trong xu hướng sử dụng TYT xã KCB ở người cao
    tuổi giữa thành thị và nông thôn (13% so với 25%) [9].
    Về tình hình sử dụng DVYT tư nhân, nghiên cứu của Viện Chiến lược
    và Chính sách y tế (2006) cho thấy có 34% NCT đến KCB tại các cơ sở y tế
    tư nhân. Tỷ lệ này thấp hơn trong Điều tra y tế quốc gia là 63,7% ở khu vực
    nông thôn và 66,2% ở khu vực thành thị [9]. Lý do chủ yếu NCT lựa chọn cơ
    sở y tế tư nhân là do thuận tiện, gần nhà hoặc có thể trực tiếp mời thầy thuốc
    tư đến thăm khám tại nhà cho người cao tuổi. Một lý do khác giải thích cho
    việc NCT có xu hướng tự điều trị hoặc sử dụng y tế tư nhân nhiều hơn là do
    bệnh nhẹ (25,3%) hoặc là triệu chứng đã bị mắc nhiều lần (21,7%) [22].

    21
    Mô hình sử dụng DVYT có sự khác biệt tương đối giữa nam và nữ. Phụ
    nữ cao tuổi khi bị ốm có xu hướng tự điều trị và sử dụng DVYT tư nhân cao
    hơn nam giới (43% so với 32,2%); có 27,3% NCT nữ đến KCB ở các cơ sở y
    tế tư nhân, trong khi tỷ lệ này ở NCT nam là 19,3%. Bên cạnh đó, xu hướng
    lựa chọn cơ sở KCB là bệnh viện cũng không giống nhau ở các nhóm tuổi khác
    nhau. Tuổi càng cao xu hướng KCB tại bệnh viện ít hơn. Những người trên 85
    tuổi có tỷ lệ KCB tại bệnh viện thấp hơn nhóm tuổi 60-64 tuổi hơn 2 lần [22].
    Qua các nghiên cứu trên ta thấy số lượng NCT được KCB, sử dụng các
    DVYT chưa nhiều. Mức độ sử dụng DVYT không đồng đều giữa các khu
    vực, vùng, miền và đặc điểm kinh tế nên chưa đáp ứng được yêu cầu về sự
    công bằng trong CSSK NCT. Vì vậy, vấn đề quan trọng là cần phải tìm ra giải
    pháp nhằm nâng cao sức khỏe cho NCT, nhất là người cao tuổi sống ở vùng
    nông thôn, vùng xa trung tâm, miền núi, NCT cô đơn không nơi nương tựa.
    1.1.7. Khả năng đáp ứng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ người cao tuổi của
    trạm y tế
    Khả năng đáp ứng dịch vụ chăm sóc sức khỏe là tổng hợp các điều kiện,
    nguồn lực sẵn có của các cơ sở y tế tạo nên các DVYT nhằm thỏa mãn nhu cầu
    CSSK của nhân dân. Khả năng đáp ứng nhu cầu CSSK của các cơ sở y tế bao
    gồm các yếu tố: Nhân lực y tế (cán bộ y tế, nhân viên y tế) về cả số lượng và
    chất lượng; các điều kiện đảm bảo DVYT (cơ sở vật chất, hạ tầng ); trang thiết
    bị y tế (thuốc, hóa chất, dụng cụ ); ngân sách y tế (bao gồm ngân sách của nhà
    nước, địa phương và nguồn ngân sách xã hội hóa ); cơ chế, chính sách.
    Ở Việt Nam, hệ thống y tế được chia thành 4 tuyến: Trung ương, tỉnh,
    huyện, xã, trong tuyến xã có trạm y tế xã và y tế thôn bản với các chức năng
    nhiệm vụ khác nhau nhưng chưa đề cập đến nhiệm vụ CSSK người cao tuổi
    Như vậy, hệ thống chăm sóc Lão khoa ở nước ta hiện nay vẫn chưa được tổ
    chức thành mạng lưới từ Trung ương đến cơ sở như những lĩnh vực khác. Mặt
    khác, nhiệm vụ CSSK cho người cao tuổi là một yêu cầu bắt buộc cần có để đạt
    Chuẩn y tế quốc gia theo bộ tiêu chí mới được ban hành.

    22
    Trong định hướng chiến lược chăm sóc bảo vệ sức khoẻ nhân dân đến
    năm 2020 nêu rõ: "Ứng dụng các kỹ thuật thích hợp có thể phổ cập ở các
    tuyến tỉnh, huyện, xã để nâng cao chất lượng khám chữa bệnh. Tăng cường
    chăm sóc sức khoẻ tại cộng đồng và tại gia đình" [11], "Đổi mới công tác y
    tế để đáp ứng tốt CSSK nhân dân", "Cung ứng thuốc thiết yếu cho đối tượng
    chính sách, người nghèo". Cùng với sự hỗ trợ ngân sách của Nhà nước, các
    TYT xã/phường về cơ bản đã đi vào hoạt động ổn định, thực hiện được các
    nhiệm vụ dự ph ng, điều trị, cấp cứu ban đầu và phục hồi chức năng.
    Khi cơ cấu kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường theo định hướng xã
    hội chủ nghĩa, việc CSSK được thực hiện theo phương châm "Nhà nước và
    nhân dân cùng làm". Thực hiện xã hội hoá công tác y tế và đa dạng hoá các
    loại hình dịch vụ CSSK, nhà nước cho phép thu một phần viện phí (từ năm
    1989), bảo hiểm y tế (từ năm 1992), các DVYT tư nhân được hoạt động và
    người dân có quyền lựa chọn cơ sở DVYT nào phù hợp, đáp ứng được nhu
    cầu trong chăm sóc sức khỏe của họ [10].
    * Về nhân lực:
    Với nhiều loại hình DVYT khác nhau, song các TYT xã/phường chủ
    yếu tập trung thực hiện các chương trình y tế quốc gia và làm công tác y tế dự
    ph ng, hoạt động KCB và CSSK thông thường cho người dân rất ít, đặc biệt
    là cho NCT. Theo báo cáo của 34 Sở Y tế và 15 bệnh viện (năm 2004), chỉ có
    22 bệnh viện ở Trung ương và tỉnh/thành đã thành lập khoa Lão khoa với
    2.782 giường bệnh. Có khoảng 46% số cán bộ làm công tác CSSK cho NCT
    đã được qua các lớp tập huấn đào tạo chuyên ngành Lão khoa [70]. Năm
    2013, toàn quốc có 74,4% số xã có bác sỹ, tăng hơn so với năm 2006 (65,1%).
    So với các nước trong khu vực, Việt Nam có 7,68 bác sỹ/10.000 dân; cao hơn
    Thái Lan 2,94 bác sỹ; thấp hơn Brunei với 9,93 bác sỹ; Philippin (12,45) và Nhật
    Bản (20,15) [17], [18]. Tuy nhiên, hoạt động KCB của một số TYT vẫn không
    được cải thiện, cán bộ y tế xã với mức lương thấp, gặp rất nhiều khó khăn trong
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...