Thạc Sĩ Nghiên cứu nhện (Araneae) trong hang động tại vườn quốc gia Ba Bể, Bắc Kạn

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 15/12/15.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/
    4
    MỞ ĐẦU
    1. Đặt vấn đề
    Bộ nhện (Araneae) là một trong những nhóm động vật chân khớp cổ có tính
    đa dạng sinh học cao, phân bố rộng khắp và phổ biến nhất ở hệ sinh thái trên cạn.
    Nhện được tìm thấy ở mọi nơi: trong nhà, trong rừng, vườn cây, trên cánh đồng
    lúa, công viên, bụi cây, ven sông, ven suối, . Nhện không chỉ đa dạng về số loài
    mà còn chiếm ưu thế về mặt số lượng trong quần thể các nhóm chân khớp.
    Thức ăn chủ yếu của chúng là côn trùng, nhờ đó mà nhện được xem như là
    một trong những tác nhân quan trọng trong việc kiểm soát quần xã côn trùng trong
    hệ sinh thái cạn. Nhện có vai trò tích cực trong việc hạn chế sự phát triển của côn
    trùng gây hại trên cây trồng nông nghiệp. Ngoài ra, nhện còn được coi như sinh vật
    chỉ thị tốt để so sánh đặc điểm sinh thái của các khu hệ có điều kiện môi trường
    khác nhau và đánh giá ảnh hưởng của môi trường lên hệ sinh thái.
    Việc nghiên cứu đa dạng sinh vật nói chung và đa dạng thành phần loài nhện
    nói riêng ở nhiều sinh cảnh khác nhau có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá
    chất lượng môi trường tại các vùng nghiên cứu. Khu hệ nhện Việt Nam được đánh
    giá là có mức đa dạng sinh học cao, nhưng chưa được tập trung nghiên cứu. Trong
    những năm gần đây đã có một số công trình nghiên cứu về nhện. Tuy nhiên, các
    nghiên cứu này mới chỉ tập trung chủ yếu trên một số cây trồng nông nghiệp như
    lúa, đậu tương, nhãn vải. Các nghiên cứu về nhện ở các sinh cảnh rừng tự nhiên,
    đặc biệt là các nghiên cứu về nhện hang động còn rất ít.
    Vườn quốc gia Ba Bể còn có một hệ thống hang động vô cùng kỳ thú với hệ
    động vật chưa được khám phá. Cho đến nay, vẫn chưa có công trình nghiên cứu
    nào nghiên cứu về nhện trong hang động tại VQG Ba Bể. Từ những lý do trên,
    chúng tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu nhện (Araneae) trong hang động tại vườn
    quốc gia Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn” để góp phần nghiên cứu nhện ở Việt Nam.
    2. Mục tiêu của đề tài
    Xác định thành phần loài, nơi cư trú, và ảnh hưởng từ các hoạt động của con
    người đến nhện trong hang động khu vực Vườn quốc gia Ba Bể tỉnh Bắc Cạn; là cơ
    Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/
    5
    sở để khuyến nghị một số giải pháp bảo tồn đa dạng sinh học và quản lý bền vững
    hang động.
    3. Nội dung nghiên cứu
    - Thành phần loài nhện trong hang động của Vườn quốc gia Ba Bể tỉnh Bắc
    Cạn.
    - Phân bố của các loài nhện theo các vị trí khác nhau trong hang động (cửa
    hang, chuyển tiếp, vùng tối).
    - Ảnh hưởng từ các hoạt động của con người đến nhện trong hang động.
    - Khuyến nghị một số giải pháp bảo tồn đa dạng sinh học và quản lý bền vững
    hang động.
    4. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài:
    Nhện là một trong những nhóm động vật không xương sống phong phú và đa
    dạng nhất ở hệ sinh thái trên cạn. Chúng được xem như là tác nhân chủ yếu trong
    việc kiểm soát quần xã côn trùng trong hệ sinh thái cạn. Nhện còn được coi như
    sinh vật chỉ thị tốt để so sánh đặc điểm sinh thái của các khu hệ có điều kiện môi
    trường khác nhau và đánh giá ảnh hưởng của môi trường lên hệ sinh thái.
    Môi trường trong hang động rất đặc trưng, khác biệt với các môi trường khác
    cả về ánh sáng, độ ẩm, và độ sâu nên các sinh vật ở đây rất đặc trưng về hình
    thái và có tính đặc hữu cao. Hiện nay, các nghiên cứu về nhện hang động được coi
    là lĩnh vực khá mới.
    Vườn Quốc Gia (VQG) Ba Bể có một hệ thống hang động rất phong phú, đa
    dạng và độc đáo. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có nghiên cứu nào về nhện
    trong hang động tại khu vực.
    Lần đầu tiên, nghiên cứu về nhện hang động tại VQG Ba Bể được tiến hành;
    nhằm xác định thành phần loài nhện trong các hang động khu vực nghiên cứu, tìm
    hiểu các hoạt động của con người ảnh hưởng như thế nào đến nhện trong hang
    động. Qua đó, là cơ sở để đưa ra một số khuyến nghị góp phần bảo tồn đa dạng
    sinh học và quản lý hang động tại địa phương.
    Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/
    6
    CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
    1.1. Giới thiệu về nhện
    Bộ nhện có tên khoa học là Araneae, tên tiếng anh là spider. Bộ nhện Araneae
    thuộc lớp hình nhện Arachnida, ngành động vật chân đốt Arthropoda. Theo
    Platnick (2011), bộ nhện chiếm ưu thế về số loài và số lượng cá thể trong 11 bộ
    của lớp hình nhện. Trên thế giới đã ghi nhận được 42.751 loài thuộc 3.859 giống
    của 110 họ nhện.
    Platnick (2006) phân bộ nhện làm hai phân bộ dựa vào cơ quan hô hấp còn
    gọi là phổi sách (Book-lungs) và bộ phận nhả tơ (Spinnerets), bao gồm:
    Mygalomorphae với hai đôi phổi sách và bốn núm nhả tơ; và Araneomorphae với
    một đôi phổi sách và 6 núm nhả tơ.
    Nhện khác với côn trùng ở đặc điểm: nhện không có râu, không có mắt kép,
    không có cánh và bụng không phân đốt. Trong khi cơ thể côn trùng có 3 phần và 3
    đôi chân thì cơ thể nhện chỉ gồm 2 phần và mang 4 đôi chân.
     Một số đặc điểm sinh thái, sinh học của nhện
    Nhện đóng vai trò là nhóm chân khớp săn mồi đáng kể trong tự nhiên. Côn
    trùng là con mồi chủ yếu của nhện nhưng chúng cũng ăn các nhóm chân khớp khác
    như rết hay thậm chí một số loài nhện còn ăn cả đồng loại của mình. Trong các loài
    côn trùng thì ruồi, muỗi và collembola đóng góp một lượng thức ăn lớn cho nhện
    (Foelix, 1996). Đặc biệt, collembola là thành phần thức ăn chính của nhiều loài
    nhện nhỏ. Tuy nhiên, không phải tất cả côn trùng đều được nhện chọn làm thức ăn
    của chúng. Hầu hết các loài nhện tránh các loại con mồi như một số loại kiến, ong
    bắp cày, hay một số loài sâu bướm, bọ cánh cứng. Những côn trùng này thường có
    mùi khó chịu hoặc tiết ra các chất hóa học để bảo vệ mình. Nhờ có số lượng và
    thành phần rất đa dạng và phong phú, nên nhện có vai trò quan trọng trong mạng
    lưới thức ăn trong tự nhiên (Foelix 1996).
    Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/
    7
    Khả năng săn mồi của nhện khác nhau không chỉ phụ thuộc vào loại con mồi
    mà cả số lượng vật mồi. Nếu số lượng vật mồi nhiều, nhện có thể ăn nhiều hơn
    bình thường. Điều này giúp cho nhện có thể hấp thu được đầy đủ năng lượng
    không chỉ giúp chúng tồn tại, phát triển mà còn giúp chúng trưởng thành nhanh
    hơn. Ngoài ra, việc ăn nhiều cũng giúp chúng dự trữ được một nguồn năng lượng
    lớn để chúng có thể duy trì sự sống nếu sau đó chúng gặp điều kiện bất lợi về thức
    ăn. Mỗi loài nhện tiêu thụ một lượng thức ăn nhất định mỗi ngày. Ví dụ, nhện sói
    họ Lycosidae ăn khoảng 3,5 mg côn trùng hàng ngày, tương đương với 12% trọng
    lượng cơ thể của loài nhện đó. Những loài nhện chăng lưới thuộc họ Linyphiidae
    ăn một lượng thức ăn tương đương khoảng 10-25% trọng lượng cơ thể của nó
    (Foelix 1996). Khi gặp điều kiện bất lợi, thức ăn khan hiếm cũng làm giảm thành
    phần loài nhện. Những loài nhện nào có khả năng chống chọi tốt sẽ sống sót,
    những loài này hoặc là có kỹ năng săn mồi tốt hoặc là có khả năng dự trữ và tích
    lũy năng lượng để chịu đựng đói trong một thời gian dài.
    Nhện bắt mồi theo hai phương pháp là giăng lưới bắt mồi (thụ động), hoặc
    rình và săn mồi tự do (chủ động). Đối với nhóm nhện giăng lưới bắt mồi, sau khi
    giăng lưới, chúng nằm yên một chỗ đợi con mồi mắc phải lưới, chúng sẽ nhả tơ
    quấn chặt con mồi lại rồi tiêm nọc độc làm con mồi chết. Nhện chăng lưới bắt mồi
    chia ra 2 nhóm. Nhóm thứ nhất chăng lưới bắt mồi vào ban ngày, chúng treo tất cả
    các bọc chứa con mồi trên mạng để ăn dần. Một nhóm chăng lưới khác thường
    hoạt động săn mồi vào ban đêm, chúng giăng lưới vào chiều tối và sáng chúng lại
    thu lưới và con mồi lại mang về nơi trú ẩn (họ Araneidae và Tetragnathidae). Đối
    với nhện săn mồi tự do, chúng thường rình và vồ con mồi sau đó dùng đôi chân
    kìm giữ và tiêm nọc độc làm chết con mồi (như nhện nhảy Salticidae).
    Cũng theo Foelix (1996) nhện phát triển qua 3 giai đoạn là trứng, nhện non và
    nhện trưởng thành. Giai đoạn con non có thể kéo dài từ 5-7 tuổi tùy theo loài. Nhện
    non phải qua nhiều lần lột xác mới tạo nhện trưởng thành. Nhện qua lần lột xác
    cuối cùng, cơ quan sinh dục hình thành mới phân biệt được nhện đực nhện cái rõ
    ràng. Về kích thước cơ thể thì nhện cái thường lớn hơn nhện đực. Nhện đực sau
    Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/
    8
    khi thành thục, chúng tìm bạn đời để giao phối. Hầu hết con đực bị chết sau khi
    giao phối do bị nhện cái ăn thịt. Tinh dịch của nhện được cất giữ tại chân xúc giác
    nhện đực. Sau khi giao phối, nhện cái đẻ trứng thành ổ được bọc bởi tơ nhện do
    chính nhện cái tạo ra. Mỗi loài nhện có số lượng và kích thước trứng khác nhau.
    Bọc trứng thường được treo trên lưới nhện, trong tổ nhện, hoặc được nhện mẹ
    mang theo. Một số loài thuộc họ nhện sói Lycosidae mang trứng ở phần gần cuối
    bụng, họ nhện càng cua lớn Heteropodidae mang trứng ở dưới ngực, còn họ
    Phocidae thì thường ngậm trứng ở hàm trước. Nhện mẹ canh giữ trứng và nhện con
    cho tới khi nhện con đủ cứng cáp và phân tán. Nhện con mới nở thường tập trung
    trong ổ trứng.
    1.2. Tình hình nghiên cứu nhện trên thế giới
    Việc đặt tên khoa học cho nhện được bắt đầu từ năm 1757; tác giả Ovid đã
    đưa ra tên của bộ nhện là Araneae, Clerek đã đưa ra tên của bộ nhện là Aranei. Đến
    năm 1801, Latreille đưa ra tên bộ nhện là Araneida. Năm 1862, Dallas cũng nêu ra
    tên của bộ nhện là Araneida. Năm 1938, Bristowe đưa tên bộ nhện là Araneae và
    tên này được sử dụng cho đến ngày nay (Platnick, 2012).
    Năm 1965, hội nhện quốc tế (International Society for Arachnology) được
    thành lập, cho đến nay đã có hàng nghìn thành viên từ trên 70 nước trên thế giới.
    Nghiên cứu về nhện đã thực sự trở thành một môn khoa học Arachnology – Nhện
    học.
    Theo thống kê của Platnick (2012), trên thế giới đã ghi nhận được 42.351 loài
    nhện thuộc 3859 giống của 110 họ nhện. Trong số các loài nhện đã ghi nhận được
    trên thế giới hiện nay, có 15 loài được ghi vào danh lục đỏ của IUCN.
    Tác giả Davies (1986, 1988) đã nghiên cứu và xây dựng khoá định loại tới họ
    của bộ nhện và khoá định loại tới loài của nhóm nhện chăng lưới đã ghi nhận được
    tại Australia.
    Năm 2000, Murphy đã đưa ra danh sách các loài nhện đã ghi nhận được tại
    các nước khu vực Đông Nam châu Á, sắp xếp theo thứ tự số lượng loài đã ghi nhận
    Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/
    9
    được từ cao đến thấp là: Indonesia (660 loài), Malaysia (463 loài), Myanma (455
    loài), Philippines (426 loài), Singapore (308 loài), Thái Lan (156 loài), Việt Nam
    (230 loài).
    Họ nhện nhảy Salticidae có số loài ghi nhận được cao nhất trong các họ thuộc
    bộ nhện. Tác giả Proszynski (2003) đã xây dựng cơ sở dữ liệu về họ Salticidae trên
    thế giới.
    Murphy & Murphy (2000) đã đưa ra danh sách các loài nhện ghi nhận được
    tại các nước khu vực Đông Nam châu Á, sắp xếp theo thứ tự số lượng loài đã ghi
    nhận được từ cao đến thấp là: Indonesia (660 loài), Malaysia (463 loài), Myanma
    (455 loài), Philipine (426 loài), Singapo (308 loài), ThaiLan (156 loài), Việt Nam
    (230 loài). Theo tác giả, khu hệ nhện của 3 nước thuộc khu vực này bao gồm
    Brunei, Campuchia và Lào chưa được nghiên cứu.
    Nghiên cứu nhện trên cây lúa ở khu vực Đông Nam châu Á, Barrion và
    Litsinger (1995) đã ghi nhận 342 loài thuộc 131 giống của 26 họ nhện. Trên cánh
    đồng lúa ở Philippines, Barrion và cs (1981) đã điều tra thu thập và định loại được
    32 loài thuộc 21 giống của 9 họ nhện. Okuma và cs (1993) đã công bố 55 loài
    thuộc 36 giống của 10 họ nhện bắt gặp trên cây lúa ở Bangladet.
    Ở Trung Quốc, nghiên cứu về nhện bắt đầu từ năm 1798. Năm 1999, Song và
    Zhu đưa ra danh sách 2361 loài thuộc 450 giống của 56 họ nhện đã ghi nhận được
    ở nước này. Cho đến nay, Trung Quốc đã xuất bản được 5 tập sách Động vật chí
    của 6 họ nhện bao gồm các họ Araneidae với 286 loài, 33 giống (Yin và cs, 1997);
    họ Thomicidae với 115 loài, 29 giống (Song và Zhu, 1997); họ Tetragnathidae với
    111 loài, 20 giống (Zhu và cs, 2003); họ Therididae với 223 loài, 27 giống (Zhu,
    1998); họ Gnaphosidae với 166 loài, 34 giống (Song và cs, 2004 ); họ
    Philodromidae với 30 loài, 3 giống (Song và Zhu, 1997).
    Nghiên cứu nhện ở các trang trại trồng cây ăn quả ở Trung Quốc, Chen và
    Gao (1990) đã ghi nhận được 332 loài nhện.

    Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/
    10
    1.3. Tình hình nghiên cứu nhện ở Việt Nam
    Những công bố về nhện đầu tiên ở Việt Nam bởi Simon (1886, 1896, 1903,
    1904, 1906, 1908), và Hogg (1922). Hai tác giả trên đã công bố ra 20 loài nhện
    mới cho khoa học được phát hiện ở Việt Nam.
    Zabka (1985) đã công bố kết quả chuyến khảo sát của mình về họ nhện nhảy
    Salticidae ở Việt Nam. Tác giả đã ghi nhận được 100 loài nhện nhảy, trong đó bao
    gồm 51 loài và 8 giống mới cho khoa học.
    Qua việc phân tích các mẫu vật thu được ở Việt Nam, Ono (1997, 1999, 2002,
    2003) đã phát hiện 7 loài nhện mới cho khoa học thuộc các họ Zodaridae và
    Liphistidae.
    Năm 2003, Peng và Li đã công bố 1 loài nhện nhảy mới cho khoa học phát
    hiện được ở Cao Bằng.
    Một loài mới cho khoa học thuộc họ Zodaridae đã được công bố bởi Gristian
    (2004).
    Bùi Hải Sơn (1995) đã ghi nhận được 34 loài nhện trên lúa vùng ngoại thành
    Hà Nội. Trên đồng lúa ở Nghệ An đã phát hiện được 26 loài thuộc 18 giống của 8
    họ nhện (Phạm Bình Quyền và cs, 1999). Phạm Văn Lầm và cs (1997, 2002), đã
    ghi nhận 52 loài nhện trên cánh đồng lúa ở Việt Nam.
    Phạm Đình Sắc và cs (2004) đã cho công bố danh sách và phân bố của 108
    loài nhện nhảy họ Salticidae ở Việt Nam.
    Phạm Đình Sắc và cs (2005) đã bổ sung thêm 5 loài nhện nhảy Salticidae cho
    khu hệ nhện Việt Nam.
    Nghiên cứu nhện trên đậu tương khu vực Hà Nội, Trần Đình Chiến (2002) đã
    ghi nhận được 18 loài thuộc 8 họ nhện. Phạm Đình Sắc và Khuất Đăng Long
    (2001) đã công bố thành phần loài nhện trên đậu tương tại 3 tỉnh Hà Nội, Hoà Bình
    và Bắc Ninh bao gồm 26 loài thuộc 9 họ nhện.
    Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/
    11
    Một số công trình nghiên cứu thành phần loài nhện trên cây vải thiều đã được
    công bố. Phạm Đình Sắc và Vũ Quang Côn (2002) đã ghi nhận được 34 loài nhện
    trên cây vải thiều ở Sóc Sơn, Hà Nội; 29 loài nhện trên cây vải thiều ở Mê Linh,
    Vĩnh Phúc. Thái Trần Bái và cs (2005) đã phát hiện được 33 loài nhện trên cây vải
    thiều ở Thanh Hà, Hải Dương.
    Khu hệ nhện ở các vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên của Việt Nam
    rất ít được nghiên cứu. Tại vườn quốc gia Ba Bể, Phạm Đình Sắc (2003) bước đầu
    đã công bố danh sách 82 loài thuộc 23 họ nhện. Lần đầu tiên ở Việt Nam, một loài
    nhện có nọc độc họ Theraphosidae đã được tìm thấy ở VQG Tam Đảo tỉnh Vĩnh
    Phúc và khu bảo tồn thiên nhiên Hữu Liên tỉnh Lạng Sơn (Phạm Đình Sắc và Vũ
    Quang Côn, 2005).
    Cho đến năm 2005, Việt Nam đã ghi nhận được 275 loài thuộc 144 giống của
    30 họ nhện (Phạm Đình Sắc, 2005). Năm 2007 bổ sung thêm 45 loài, 15 giống, 1
    họ cho khu hệ nhện Việt Nam (Phạm Đình Sắc và cs, 2007).
    Trong giai đoạn từ 2009 đến 2012, tác giả Phạm Đình Sắc phối hợp với các
    chuyên gia nước ngoài tiến hành các đợt khảo sát nhện ở miền Bắc Việt Nam, đã
    công bố 30 loài nhện mới cho khoa học (Lin & Pham & Li, 2009; Liu, Li & Pham,
    2010a, 2010b; Zha, Pham & Li Shuqiang, 2012; Yao, Pham & Li, 2012).
    Gần đây nhất, Hirotsugu Ono, Tạ Huy Thịnh, Phạm Đình Sắc (2012) đã thống
    kê danh sách các loài nhện ở Việt Nam từ năm 1837 đến 2011 đã ghi nhận được
    456 loài thuộc 41 họ. Tuy nhiên, cũng theo các tác giả trên, một số họ đã ghi nhận
    được ở khu vực Đông Nam châu Á, nhưng vẫn còn chưa tìm thấy ở Việt Nam như:
    Atypidae, Idiopidae, Dipluridae, Nemessidae, Barychelidae, Segestriidae,
    Hypochilidae, Filistatidae, Eresidae, Oecobiidae, Titanoecidae, Hersiliidae,
    Papimanidae, Desidae, Hahniidae, Theridiosomatidae, Mysmenidae.
    Nghiên cứu về nhện trong hang động mới được tiến hành trong thời gian gần
    đây. Năm 2009, sáu loài nhện mới được phát hiện trong hang động tại hai VQG
    Cúc Phương tỉnh Ninh Bình và Cát Bà tỉnh Hải Phòng (Lin & Pham & Li, 2009).
    Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/
    12
    Năm 2010, thêm 1 loài nhện mới được phát hiện tại VQG Cát Bà Hải Phòng (Liu,
    Li & Pham, 2010b). Nghiên cứu nhện trong hang động khu vực VQG Phong Nha
    Kẻ Bàng tỉnh Quảng Bình, tác giả Phạm Đình Sắc đã chỉ ra rằng khu hệ nhện hang
    động tiềm ẩn nhiều điều mới lạ, cần khám phá (Phạm Đình Sắc và cs, 2011).
    1.4. Khái quát về hang động
    1.4.1. Các khái niệm về hang động
    Thuật ngữ hang động thường được áp dụng để chỉ một khe hở tự nhiên,
    trong các loại đá khác nhau, đủ lớn để con người đi vào. Thuật ngữ này mang tính
    chủ quan, chỉ dựa trên khả năng tiếp cận của con người, không dựa vào quá trình
    hình thành, do đó thiếu khoa học (J. Fromaget, 1997). Đến nửa sau thế kỷ 19, nhờ
    những tiến bộ trong thăm dò hang động của nhiều nhà khoa học trên thế giới, khái
    niệm về hang động mới dần chính xác và khoa học hơn (Alexander Klimchouk,
    1998). Một số khái niệm được chấp nhận và sử dụng hiện nay như:
    - Theo hiệp hội hang động quốc tế, hang là sự mở rộng tự nhiên ở dưới các
    khối núi đá có chiều rộng đủ để con người đi vào.
    - Theo the National Park Service, hang có tổng chiều dài ít nhất 50 feel
    (khoảng 15m), chứa các vùng bóng tối hoặc chiều dài của các đoạn hang
    vượt quá chiều rộng của cửa ra vào.
    - Theo Federal Cave Resources Protection Act of 1988, USA – FCRPA,
    bất cứ chỗ trống, hốc, ngách, hoặc hệ thống các đoạn nối liền với nhau,
    xảy ra tự nhiên bên dưới bề mặt của trái đất, trong một vách đá hoặc gờ
    đủ lớn để cho phép người đi vào, dù lối vào hình thành tự nhiên hoặc do
    con người tạo nên.
    Từ các khái niệm trên, thì hang động được hiểu là một hang, động kết nối
    với mặt đất thông qua lối vào, mà không xét đến hình thái, khích thước và nguồn
    gốc.
    Mặc dù, chưa có sự thống nhất về cách định nghĩa hang động giữa các quốc
    gia gia với nhau, nhưng khái niệm về hang động của hiệp hội hang động thế giới
    Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/
    13
    được chấp nhận và sử dụng rộng rãi bởi các hiệp hội hang động của nhiều quốc gia
    (Klimchouk & Kasjan, 2001).
    Theo Humphreys (2000), hang động được chia ra một số vùng sinh học khác
    biệt bao gồm: vùng cửa hang, vùng chuyển tiếp, và vùng tối. Các vùng này tương
    ứng với chế độ ánh sáng và các điều kiện môi trường khác nhau. Vùng cửa hang là
    khu vực có chế độ ánh sáng bình thường, thậm chí cây cối vẫn xảy ra quá trình
    quang hợp, nhiệt độ và ẩm độ thay đổi hàng ngày. Vùng giáp ranh hay còn gọi là
    vùng chuyển tiếp (tranh tối, tranh sáng) là vùng cách xa vùng cửa hang, ưu thế bởi
    các loài địa y và các loài tảo là những loài thích hợp với điều kiện ánh sáng yếu.
    Nhiệt độ và độ ẩm vẫn có thể thay đổi, và ẩm độ thường cao hơn so với bên ngoài.
    Đi sâu hơn vào trong hang, ánh sáng giảm tới 0, gọi là vùng tối. Vùng tối nhiệt độ
    và ẩm độ gần như không biến đổi.
    1.4.2. Hệ thống hang động của VQG Ba Bể
    Trong hệ thống núi đá vôi của Ba Bể có một hệ thống hang động rất phong
    phú, đa dạng và độc đáo do thiên nhiên ban tặng. Nhiều hang động đẹp có nét hấp
    dẫn riêng và độc đáo như: hang Puông, hang Nà Phòng, hang Hua Mạ. Tại hang
    Puông có nhiều nhũ thạch đẹp, hang Puông cao trung bình tới 8m, có nơi cao tới
    12-15m, rộng trung bình khoảng 8 - 12m, hang này còn có suối chảy qua với chiều
    dài trên 1.000m. Ngoài ra, ở khu vực Ba Bể còn có một số hang động nhỏ khác
    nằm trong những núi đá thiên tạo, được tô điểm bởi các loài thực vật có hoa, có âm
    thanh dấu vết của các loài chim, thú, côn trùng . hoàn toàn tạo cảm giác khám phá
    mới mẻ cho khách du lịch và có ý nghĩa sinh học như: Động Tiên, Động Nả Phòng,
    Động Ba Cửa, Hang Sơn Dương. Đặc biệt là các hang động này ở gần khu dân cư
    rất dễ tiếp cận.



    Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/
    14



    CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
    2.1. Đối tượng nghiên cứu
    Đối tượng nghiên cứu là các loài nhện trong hang động.
     Đặc điểm cấu tạo ngoài của nhện
    Cơ thể nhện chia ra 2 phần: phần giáp đầu ngực (Cephalothorax) và phần
    bụng (Abdomen), hai phần này được nối với nhau bởi cuống bụng. Phần giáp đầu
    ngực bao gồm tấm lưng ngực (carapace) và tấm bụng ngực (sternum). Phía trên
    đầu của giáp đầu ngực có miệng (môi trên – endite; môi dưới – labium) và một đôi
    chân kìm (chelicera), bên cạnh chân kìm là một đôi chân xúc giác (Palp). Cuối đôi
    chân kìm của nhện có đôi răng lớn và khỏe dùng để bắt giữ và giết con mồi. Trên
    tấm lưng ngực của nhện còn thấy một cái rãnh (hố - Fovea).
     
Đang tải...