Luận Văn Nghiên cứu một số đặc điểm sinh vật,sinh thái của nấm Cổ ngựa vỏ cứng (Scleroderma lycoperdoides Sch

Thảo luận trong 'Môi Trường' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Nghiên cứu một số đặc điểm sinh vật học, sinh thái học của nấm Cổ ngựa vỏ cứng (Scleroderma lycoperdoides Schw.) và khả năng cộng sinh với cây bạch đàn ươm

    Đặt vấn đề

    Rừng là nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, có tác dụng

    nhiều mặt đối với đời sống, kinh tế-xã hội và sự sinh tồn của con ngươì. Rừng

    cung cấp không những sản phẩm có giá trị trực tiếp nh- gỗ, củi, tre nứa, nấm

    ăn, cây làm thuốc, chim, thú rừng v.v ., mà rừng còn có giá trị gián tiếp rất to

    lớn và vô cùng quý giá nh- khả năng tự duy trì, bảo vệ môi trường sinh thái,

    điều hòa nhiệt độ làm cho mùa hè mát mẻ, mùa đông ấm áp, điều hoà dòng

    chảy và độ ẩm không khí, điều hoà lượng CO2 trong khí quyển, làm giảm

    những tai hoạ về lũ lụt và sự dâng nước biển trong tương lai.

    Thiên nhiên nhiệt đới đem lại cho con ng-ời rất nhiều nguồn lợi khác

    nhau. Nhưng do con người kinh doanh, sử dụng rừng không hợp lý như khai

    thác rừng bừa bãi, đốt nương làm rẫy, mặt khác do dân số tăng nhanh, dẫn đến

    mối quan hệ giữa tài nguyên rừng và con ng-ời bị mất cân bằng. Nhiều loài

    cây bị tuyệt chủng, làm cho hệ sinh thái rừng mất ổn định. Cùng với diện tích

    rừng ngày càng bị thu hẹp, tài nguyên sinh vật cũng bị suy giảm cả về số lượng và chất lượng. Giá trị sinh thái rừng đang trong tình trạng báo động.

    Theo số liệu thông báo của Chính phủ năm 1999 thì tổng diện tích tự

    nhiên của Việt Nam là 33.063.000 ha, độ che phủ của rừng là 28%. Trong đó
    chủ yếu là rừng nghèo, rừng có trữ lượng gỗ bình quân thấp, chỉ khoảng 63 m3

    gỗ / ha. Các loại gỗ nhóm I và nhóm II hiện nay còn rất ít. Trong những năm

    qua, chúng ta đã trồng đ-ợc 100.000 ha rừng hàng năm, nh-ng diện tích bình

    quân theo đầu ng-ời còn rất thấp, chỉ đạt 0,14 ha/ ng-ời.

    Đứng tr-ớc thực trạng rừng n-ớc ta bị suy giảm, Đảng và Nhà n-ớc đã

    giao nhiệm vụ cho ngành Lâm nghiệp trong giai đoạn 2001-2010 phải ra sức

    bảo vệ, duy trì vốn rừng hiện có, đồng thời đẩy nhanh công tác trồng rừng,

    phủ xanh đất trống, đồi núi trọc. Trong giai đoạn này chỉ tiêu đạt 5 triệu ha

    rừng, trong đó rừng sản xuất là 3 triệu ha, phát huy hiệu quả chức năng của

    rừng về phòng hộ, bảo vệ đa dạng sinh học, điều tiết dòng chảy, giảm thiểu tác hại của m-a bão, lũ lụt, hạn hán, ngăn chặn xói mòn rửa trôi, cải thiện môi

    tr-ờng sinh thái, đảm bảo chất l-ợng cuộc sống và sự phát triển bền vững của

    đất n-ớc. Phấn đấu đến năm 2010 nâng độ che phủ của rừng toàn Quốc lên

    43% nh- tinh thần Nghị quyết của Quốc hội n-ớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa

    Việt Nam khoá X kỳ họp thứ hai ngày 5 tháng 12/1997 về dự án trồng 5 triệu

    ha rừng, giai đoạn 1998 - 2010 và Quyết định 661/QĐ - TTg ngày 29 tháng 7/

    1998 của Thủ t-ớng Chính phủ nói về mục tiêu, nhiệm vụ chính sách và tổ

    chức thực hiện dự án này (Tạp chí Lâm nghiệp số 9/1998).

    Trong thiên nhiên cũng nh- trong cuộc sống, nấm có ý nghĩa rất to lớn.

    Chúng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, sinh thái và xã hội, gắn bó chặt

    chẽ với con người. Nấm có thể gây bệnh cho cây trồng, nh-ng nấm cũng mang đến cho con người nhiều lợi ích khác nấm giữ vai trò vô cùng quan trọng của vật phân giải trong hệ sinh thái địa cầu, chúng cùng với vi khuẩn

    phân giải các chất hữu cơ thực vật, trả lại các chất vô cơ, xúc tiến tuần hoàn

    các chất C, N, S, Nấm có tác dụng làm sạch môi tr-ờng n-ớc và không

    khí, giúp cho giới thực vật lập nên một hệ thống tự bón phân; khí CO2 cần

    thiết cho quang hợp của cây xanh đ-ợc lấy chủ yếu từ sự phân giải chất hữu

    cơ, từ đó giải phóng O2, cung cấp cho con người và sinh vật [14]. Trong rừng,

    hầu hết các loài cây gỗ có rễ làm bạn với nấm, đó là rễ nấm hay nấm rễ hay

    nấm cộng sinh với rễ (Mycorrhiza). Nấm rễ làm tăng diện tích hút chất dinh

    d-ỡng của cây, đồng thời còn sinh ra các chất đề kháng, ức chế các loài nấm

    có hại cho cây trồng. Cho nên rễ nấm là một vật bảo vệ thiên nhiên của cây

    rừng.

    Những năm trước đây nhiều tác giả đã đề cập đến việc sử dụng đất mùn

    thông để làm bầu ươm cây con. Nhưng sử dụng đất mùn thông có nhiều nhược

    điểm như: (1) Chưa xác định rõ sợi nấm cộng sinh trong đất, (2) Đất lẫn cả

    nhiều loài nấm gây bệnh nhất là nấm gây bệnh thối cổ rễ, (3) Lượng đất rừng

    thông bị lấy đi qúa nhiều gây ra hiện tượng xói mòn nghiêm trọng (4) Phải

    vận chuyển xa thậm chí không có đất mùn thông để sử dụng nữa . Vì vậy cần phải có chế phẩm nấm cộng sinh bón cho cây con ở vườn ươm. Nhiều loài nấm như nấm cổ ngựa đậu màu ( Pisolithus tinctorius), Nấm cổ ngựa vỏ cứng ( Scleroderma spp.), nấm bụng râu (Rhizopogon spp.) đã được sử dụng bón cho cây thông, bạch đàn và keo ở nước ta và một số nước Nhiệt đới, á nhiệt đới.

    Nhiều tác giả chỉ đề cập đến một số nấm có mức độ cộng sinh cao với nhiều loài bạch đàn, thông như nấm cổ ngựa nhiều rễ (Scleroderma polyrhizium Pers), nấm cổ ngựa đậu mầu (Pisolithus tinctorius Coker et Couch), nấm loa kèn nhỏ (Cantharellus minor Peck) .

    Nấm cổ ngựa vỏ cứng (Scleroderma lycoperdoides Schw.) là loài nấm

    cộng sinh phân bố rộng rãi ở nước ta nói chung và trường Đại học Lâm nghiệp

    nói riêng, nó có khả năng cộng sinh với một số loài cây lá rộng và lá kim.

    Trong các tài liệu về nấm cộng sinh. Qua nhiều năm nghiên cứu các sinh viên

    trường Đại học Lâm nghiệp đã xác định được trên 50 loài nấm cộng sinh trong

    rừng thông và rừng bạch đàn thuộc các tỉnh Nghệ An, Hoà Bình, Hà Tây. Tại

    các tỉnh đó đều có nấm cổ ngựa vỏ cứng phân bố.

    Tuy nhiên việc nghiên cứu về đặc điểm sinh vật học và mối quan hệ giữa loài nấm này với hệ sinh vật quanh rễ, loại hình rễ nấm, hình thái rễ nấm, sự hình thành rễ nấm, các điều kiện và nhân tố hình thành rễ nấm, sự phân bố loài nấm này vẫn chưa được đề cập một cách đầy đủ.

    Với mục tiêu phát triển và tạo chế phẩm nấm cộng sinh làm tăng sinh

    trưởng cây con ở vườn ươm, thúc đẩy nhanh quá trình phủ xanh đất trống, đồi

    núi trọc ở n-ớc ta, chúng tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu một số đặc điểm

    sinh vật học, sinh thái học của nấm Cổ ngựa vỏ cứng (Scleroderma

    lycoperdoides Schw.) và khả năng cộng sinh với cây bạch đàn ươm tại

    trường Đại học Lâm nghiệp, Xuân Mai, Hà Tây”.


    Luận văn dài 84 trang, chia làm 3 chương
     

    Các file đính kèm:

    • a2-.rar
      Kích thước:
      703.7 KB
      Xem:
      0
Đang tải...