Thạc Sĩ Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học cá bống cát trắng Glossogobius sparsipapillius tại hồ Lắk và thử

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 28/11/14.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    MỤC LỤC
    MỞ ĐẦU . 1
    1. Lý do chọn đề tài . 1
    2. Mục tiêu đề tài 2
    CHƯƠNG I: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
    1.1. Lược sử vấn đề nghiên cứu trên thế giới . 4
    1.1.1. Nghiên cứu về phân loại, phân bố của cá . 4
    1.1.2. Nghiên cứu về đặc điểm sinh học – sinh thái . 4
    1.1.3. Nghiên cứu đặc điểm sinh sản 8
    1.2. Lược sử nghiên cứu cá ở Việt Nam 9
    1.2.1. Nghiên cứu về phân loại 9
    1.2.2. Nghiên cứu về đặc điểm sinh học, sinh sản của cá . 10
    1.2.3. Nghiên cứu thủy sinh ở hồ Lắk 13
    1.2.4. Nghiên cứu về cá Bống cát trắng . 13
    1.3. Đặc điểm tự nhiên và xã hội của hồ Lắk . 15
    1.3.1. Vị trí địa lý và diện tích của hồ Lắk . 15
    1.3.2. Chế độ thủy văn . 16
    1.3.3. Địa hình – khí hậu . 17
    1.3.4. Đặc điểm kinh tế xã hội . 19
    CHƯƠNG II: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
    CỨU 21
    2.1. Đối tượng nghiên cứu . 21
    2.2. Vật liệu nghiên cứu 21
    2.3. Nội dung nghiên cứu 21
    2.3.1. Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học cơ bản của cá Bống cát trắng 21
    2.3.2. Bước đầu nuôi thử nghiệm sinh sản cá Bống cát trắng . 21
    2.4. Phương pháp nghiên cứu 21
    2.4.1. Phương pháp nghiên cứu một số đặc điểm sinh học cá Bống cát trắng . 21
    2.4.2. Phương pháp nghiên cứu thử nghiệm sinh sản cá Bống cát trắng . 28 iv
    2.5. Xử lý và phân tích số liệu . 30
    CHƯƠNG III: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 31
    3.1. Một số đặc điểm sinh học của cá Bống cát trắng 31
    3.1.1. Đặc điểm về hình thái bên ngoài của cá Bống cát trắng . 31
    3.1.2. Đặc điểm sinh trưởng của cá Bống cát trắng 32
    3.1.3. Đặc điểm dinh dưỡng của cá Bống cát trắng 38
    3.1.4. Đặc điểm sinh sản cá Bống cát trắng 43
    3.2. Kết quả thứ nghiệm sinh sản trong điều kiện nhân tạo của loài cá Bống
    cát trắng 66
    3.2.1. Thuần hóa cá bố mẹ . 66
    3.2.2. Tạo đàn cá bố mẹ . 69
    3.2.3. Đánh giá sức sinh sản của cá nuôi trong bể 69
    3.2.4. Tỷ lệ cá thành thục và kết quả sinh sản nhân tạo tại các công thức
    nuôi vỗ 70
    3.1.5. Kết quả thử nghiệm ấp trứng cho cá Bống cát trắng trong môi trường
    nhân tạo . 71
    3.1.6. Kết quả ương nuôi cá bột . 73
    CHƯƠNG IV: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 74
    4.1. Kết luận 74
    TÀI LIỆU THAM KHẢO 76
    PHỤ LỤC . 0 v
    DANH MỤC CÁC BẢNG
    Bảng 3.1. Chiều dài và chiều rộng của cá Bống cát trắng theo nhóm kích thước 33
    Bảng 3.2. Chiều dài và khối lượng của cá Bống cát trắng theo nhóm kích thước 35
    Bảng 3.3. Sự tăng trưởng về chiều dài và khối lượng qua các tháng nuôi thử
    nghiệm ( từ tháng 1/2011 đến tháng 8/2011 ) 37
    Bảng 3.4. Thành phần thức ăn của loài cá Bống cát trắng (tính theo tần suất xuất
    hiện) 38
    Bảng 3.5. Tần suất thức ăn của loài cá Bống cát trắng 39
    Bảng 3.6. Hệ số thức ăn của cá Bống cát trắng 40
    Bảng 3.7. Độ béo theo từng nhóm kích thước của loài cá Bống cát trắng (tính
    theo cm) 42
    Bảng 3.8. Sức sinh sản tuyệt đối và tương đối của cá Bống cát trắng theo nhóm
    kích thước 61
    Bảng 3.9. Đường kính trứng theo nhóm kích thước của cá Bống cát trắng 62
    Bảng 3.10. Kích thước trứng của cá Bống cát trắng theo giai đoạn 63
    Bảng 3.11. Kết quả thuần hóa cá bố mẹ qua các đợt thu mẫu 67
    Bảng 3.12. Số liệu môi trường nuôi qua các tháng nuôi (tháng 1/2011 – tháng
    8/2011) 67
    Bảng 3.13. Đánh giá sức sinh sản của cá nuôi trong bể 69
    Bảng 3.14. Tỷ lệ cá bố mẹ thành thục tại các công thức nuôi vỗ 70
    Bảng 3.15. Kết quả cho cá đẻ nhân tạo tại các công thức nuôi vỗ 70
    Bảng 3.16. Kết quả thí nghiệm ấp trứng trong các loại dụng cụ khác nhau tại
    nhiệt độ nước 25 – 27 0 C 72
    Bảng 3.17. Kết quả ương nuôi cá bột 71vi
    DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ
    Đồ thị 3.1. Cơ cấu giới tính của cá Bống cát trắng 46
    Đồ thị 3.2. Kích thước thành thục ban đầu của cá Bống cát trắng cái 57
    Đồ thị 3.3. Kích thước thành thục ban đầu của cá Bống cát trắng đực 57
    Đồ thị 3.4. Kích thước thành thục ban đầu của cá Bống cát trắng lưỡng tính theo
    hướng cái 58
    Đồ thị 3.5. Kích thước thành thục ban đầu của cá Bống cát trắng lưỡng tính theo
    hướng đực 58
    Đồ thị 3.6. Hệ số thành thục sinh dục của cá Bống cát trắng cái 59
    Đồ thị 3.7. Hệ số thành thục sinh dục của cá Bống cát trắng đực 59
    Đồ thị 3.8. Hệ số thành thục sinh dục của cá Bống cát trắng lưỡng tính theo
    hướng cái 60
    Đồ thị 3.9. Hệ số thành thục sinh dục của cá Bống cát trắng lưỡng tính theo
    hướng cái 60
    Đồ thị 3.10. Biến động phần trăm thành thục sinh dục cái theo thời gian 64
    Đồ thị 3.11. Biến động phần trăm các giai đoạn thành thục đực theo thời gian 65vii
    DANH MỤC CÁC HÌNH
    Hình 1.1. Ảnh hồ Lắk từ vệ tinh 15
    Hình 3.1. Cá Bống cát trắng 32
    Hình 3.2 Trứng và tinh sào của cá Bống cát trắng 44
    Hình 3.3. Cá Bống cát trắng cái 44
    Hình 3.4. Cá Bống cát trắng đực 45
    Hình 3.5. Cá Bống cát trắng lưỡng tính 45
    d. Cơ cấu giới tính 45
    Hình 3.6. Trứng giai đoạn I 47
    Hình 3.7. Trứng giai đoạn II 47
    Hình 3.8. Trứng ở giai đoạn III 48
    Hình 3.9. Trứng ở giai đoạn IV 48
    Hình 3.10. Buồng trứng ở giai đoạn VI – III 49
    Hình 3.11. Tinh sào ở giai đoạn I 50
    Hình 3.12. Tinh sào ở giai đoạn II 51
    Hình 3.13. Tinh sào ở giai đoạn III 51
    Hình 3.14. Tinh sào ở giai đoạn IV 52
    Hình 3.15. Tinh sào ở giai đoạn VI – II 53
    Hình 3.16. Buồng trứng với các yếu tố tạo tinh 55
    Hình 3.17. Tinh sào với các yếu tố tạo trứng 56
    Hình 3.18. Bể nuôi thuần hóa cá bố mẹ 67 MỞ ĐẦU
    1. Lý do chọn đề tài
    Đắk Lắk có hệ thống sông suối dày đặc với hàng trăm hồ chứa, hồ tự nhiên
    lớn nhỏ là điều kiện thuận lợi để phát triển ngành thủy sản nói chung và nghề
    khai thác thủy sản nội địa nói riêng. So với các tỉnh trong khu vực Tây Nguyên,
    khu hệ thuỷ sinh của Đắk Lắk có tính đa dạng sinh học tương đối cao. Theo kết quả
    điều tra của trường Đại học Tây Nguyên về thành phần giống loài khu hệ cá nước
    ngọt Tây Nguyên, ở Đắk Lắk có 201 loài cá, trong đó có 22 loài có giá trị kinh tế, 7
    loài trong sách đỏ Việt Nam, 1 loài trong sách đỏ của IUCN [4].
    Hồ Lắk là hồ tự nhiên lớn nhất Đắk Lắk và cả Việt Nam với diện tích
    khoảng 658 ha. Hồ được bao bọc bởi những cánh rừng nguyên sinh nên có hệ
    động thực vật phong phú, đa dạng, đã được xác định là khu rừng lịch sử văn hóa
    môi trường hồ Lắk từ năm 1995. Hồ là nơi trú ngụ của rất nhiều loài thủy sinh
    vật, là nguồn lợi cho cư dân địa phương sinh sống ở khu vực quanh hồ. Bên bờ
    hồ còn có buôn Jun, buôn M’Liêng, những buôn người M’Nông cư trú lâu đời, là
    cái nôi của nền văn hóa M’Nông. Đây không những là điểm du lịch ưa thích của
    nhiều du khách trong ngoài nước mà còn nổi tiếng từ lâu về đặc sản cá Thát lát,
    cá Lăng, cá Trèn bầu, cá Bống , là những món ăn ngon được nhiều người biết
    đến [2].
    Qua thống kê về cá nước ngọt miền Nam Việt Nam của Mai Đình Yên, có
    rất nhiều loài cá Bống như: Cá Bống tượng (Oxyeleotris marmoratus), cá Bống
    cát tối (Glossogobius giuris), cá Bống cau (Bustis butis), cá Bống mắt
    (Ctenogobius ocellatus), cá Bống cát trắng (Glossogobius sparsipapillus) [32]
    Loài cá Bống cát trắng ở hồ Lắk có giá trị kinh tế cao (giá bán tại chợ thị
    trấn Liên Sơn, huyện Lắk dao động từ 80.000 đ - 100.000 đ /kg), được nhiều người
    ưa chuộng vì thịt thơm ngon, có thể ăn cả xương, chế biến được nhiều món ăn
    như: Cá bống kho tiêu, kho nghệ, chiên giòn 2
    Sự phát triển của kinh tế, xã hội, áp lực về dân số, ô nhiễm môi trường, khai
    thác thủy sản bừa bãi, đánh bắt bằng các ngư cụ mang tính hủy diệt đã làm giảm đa
    dạng sinh học của thuỷ sinh vật ở hồ Lắk một cách nghiêm trọng. Nguồn lợi thủy
    sản nói chung và một số loài thủy sản được coi là đặc sản của hồ đã suy giảm
    nghiêm trọng và đang có nguy cơ mất hẳn. Muốn bảo vệ tốt nguồn lợi thủy sản nói
    chung, bảo vệ các loài cá Bống nói riêng trước hết phải có những hiểu biết nhất
    định về phân loại, đặc điểm sinh thái và sinh học của chúng. Việc nuôi thử nghiệm
    và xây dựng quy trình sinh sản nhân tạo có ý nghĩa vô cùng to lớn, góp phần bảo
    tồn và phát triển nguồn gen của các loài cá này. Về lâu dài sẽ góp phần duy trì sản
    lượng cá bống theo hướng tối ưu bền vững, góp một phần vào việc ổn định và phát
    triển kinh tế cộng động ngư dân khai thác cá ở hồ Lắk.
    Chính vì lý do đó, chúng tôi được phân công thực hiện đề tài: “Nghiên cứu
    một số đặc điểm sinh học cá Bống cát trắng Glossogobius sparsipapillus tại
    hồ Lắk và thử nghiệm sinh sản”.
    2. Mục tiêu đề tài
    a. Mục tiêu tổng quát
    Làm cơ sở cho việc bảo vệ và phát triển nguồn lợi cá Bống cát trắng
    Glossogobius sparsipapillus ở hồ Lắk.
    b. Mục tiêu cụ thể
    - Bước đầu xác định một số đặc điểm sinh học cá Bống cát trắng
    Glossogobius sparsipapillus ở hồ Lắk.
    - Thử nghiệm cho sinh sản cá Bống cát trắng Glossogobius sparsipapillus.
    3. Ý nghĩa của đề tài
    - Bổ sung dẫn liệu về cá Bống cát trắng Glossogobius sparsipapillus
    cho khoa học.
    - Kết quả nghiên cứu bước đầu hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn
    cho việc đưa vào xây dựng nuôi sinh sản, nuôi thương phẩm cá Bống cát trắng
    Glossogobius sparsipapillus. 3
    4. Giới hạn của đề tài
    - Thời gian: Từ tháng 8 năm 2010 đến tháng 8 năm 2011.
    - Địa điểm:
    + Phòng thí nghiệm bộ môn sinh học đại cương trường Đại học Tây Nguyên.
    + Văn phòng Trung tâm Quốc gia giống thủy sản nước ngọt miền Trung -
    Viện Nghiên cứu NTTS III, 53 Ngô Thì Nhậm, phường Tân An, TP. Buôn Ma
    Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
    + Khu vực nuôi thử nghiệm: Huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk
    - Do đề tài giới hạn về thời gian nghiên cứu nên chúng tôi tập trung thực
    hiện những nội dung sau:
    + Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học cơ bản cá Bống cát trắng Glossogobius
    sparsipipallus ở hồ Lắk như đặc điểm dinh dưỡng, sinh trưởng và sinh sản.
    + Bước đầu nghiên cứu nuôi thử nghiệm sinh sản bằng hình thức nuôi
    trong bể xi măng. 4
    CHƯƠNG I: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
    1.1. Lược sử vấn đề nghiên cứu trên thế giới
    Cá là lớp động vật có số lượng lớn trong tự nhiên, chúng là một mắt xích
    quan trọng trong chuỗi thức ăn. Không những thế chúng còn là nguồn cung cấp
    dinh dưỡng cho con người và các loài động vật khác.
    Trong y tế, nhiều loài cá được sử dụng để làm thành phần điều chế thuốc chữa
    bệnh như dầu cá, vitamin ., phòng bệnh cho con người và các sinh vật khác. Theo
    Đông Y, cá Bống cát trắng còn được gọi là Sa ngư, có vị ngọt, tính bình, không độc
    có các tác dụng noãn trung, ích khí, ấm tỳ vị (Nam dược thần hiệu).
    Đối với đời sống, cá được chế biến thành nhiều sản phẩm có giá trị kinh tế
    cao, là thức ăn quan trọng trong ngành chăn nuôi. Phụ phẩm của ngành công
    nghiệp chế biến cá còn là nguồn phân bón rất tốt cho trồng trọt.
    Vì vậy, ngay từ rất sớm đã có nhiều các công trình nghiên cứu về cá, thuộc
    nhiều các lĩnh vực khác nhau như: Nghiên cứu về phân loại, phân bố, dinh
    dưỡng, sinh sản,
    1.1.1. Nghiên cứu về phân loại, phân bố của cá
    Ngay từ đầu thế kỷ XIX có nhiều công trình nghiên cứu về phân loại cá như
    Boulenger (1851) và Gunther (1899) đã giới thiệu 6843 loài cá ở bảo tàng Anh [22].
    Năm 1996 Rainboth đã công bố cuốn sách “Những loài cá sông Mê Kông ở
    Campuchia”. Cuốn sách này đã giới thiệu nguồn gốc, phân bố, hình ảnh của 216
    loài cá sông Mê Kông thuộc địa phận nước Campuchia, trong đó có 4 loài thuộc
    giống cá Bống cát (G.sparsipipallus)[37].
    1.1.2. Nghiên cứu về đặc điểm sinh học – sinh thái
    Những nghiên cứu về tuổi cá được tiến hành từ rất sớm. Xuvorov và
    Arnold là hai nhà khoa học người Nga (1909 – 1910) công bố công trình nghiên
    cứu về tuổi cá đầu tiên [22]. 5
    Năm 1973, Pravidin đã xây dựng phương pháp xác định phương pháp xác
    định tuổi cá. Ông khẳng định: Các xương nắp mang, xương hàm, xương vòm
    miệng, xương đai vai và cả xương phẳng của sọ đều có vân sinh trưởng nhưng vòng
    vân của xương đá tai và xương nắp mang vẫn rõ hơn các xương khác [22].
    Fulton (1902) đề ra phương pháp xác định hệ số béo của cá sau này đã
    được Clark (1928) kế thừa, sửa đổi và bổ sung đưa ra các công thức tính hệ
    số béo của cá:
    Công thức của Fulton (1902): Q Fulton = W x 100/L 3
    Công thức của Clark (1928): Q Fulton = W 0 x 100/L 3
    Trong đó:
    - Q: Hệ số béo của cá
    - L: Chiều dài của cá đo từ mút mõm đến hết tia vây đuôi dài nhất (cm)
    - W: Khối lượng toàn thân của cá (g)
    - W 0 : Khối lượng của cá đã bỏ các nội quan (g)
    Khi xác định hệ số béo của cá, người ta đã lấy khối lượng chung của nó kể cả
    nội quan. Phương pháp như vậy chưa phản ánh được những chỉ số thật sự của độ béo.
    Năm 1961, Amoxov đã tìm ra phương pháp xác định chỉ số cơ cấu bên
    ngoài mới của cá và độ béo của nó không phụ thuộc vào mức độ phát triển
    của tuyến sinh dục, độ no của bộ máy tiêu hoá và những nhân tố khác.
    Phương pháp nghiên cứu của ông dựa trên hình dạng cắt ngang của cơ thể
    cá, đặc biệt trên cơ sở xác định vòng ngang qua lưng cá ở chỗ có chiều cao
    cơ thể lớn nhất. Ông đề nghị những số đo chủ yếu sau: Chiều dài cá đến
    phần cuối phủ vảy, chiều dài đầu, chiều cao lớn nhất của cơ thể, những số đo
    ở chỗ cắt ngang theo 3 điểm của nửa cung lưng.
    Phương pháp của Amoxov khó áp dụng trong thực tế, vì vậy khi nghiên
    cứu hiện trường người ta dùng phương pháp xác định mỡ đơn giản của
    Prozoroxkaia. Ông đã đưa ra một tiêu chuẩn gồm 5 bậc để xác định mỡ của
    cá, được Nikolxki (1963) trình bày như sau: 6
    Bậc 0: Ruột không có mỡ. Đôi khi ruột non có một lớp màng trắng mỏng
    bao phủ. Giữa những mấu của ruột non thấy rõ các sợi của màng này
    Bậc 1: Có một dải mỡ mỏng nằm giữa phần thứ hai và thứ ba của ruột non.
    Đôi khi ở mép trên của phần thứ hai có một dải mỡ rất hẹp đứt quãng
    Bậc 2: Có một dải mỡ hẹp tương đối dày ở giữa phần hai và thứ ba của ruột
    non. Ở mép trên của phần thứ hai có dải mỡ hẹp liên tục không đứt quãng. Ở mép
    dưới của phần thứ ba có chỗ thấy rõ mỡ nằm thành những phần nhỏ riêng biệt
    Bậc 3: Có dải mỡ rộng ở giữa phần thứ hai và thứ ba của ruột. Ở mấu ruột
    giữa phần thứ hai và thứ ba dải này rộng ra. Có một dải mỡ rộng ở mép trên của
    phần thứ hai và mép dưới của phần thứ ba. Ở chỗ cong thứ nhất của ruột, nếu
    tính từ phần cuối đầu có một khối mỡ hình tam giác. Ở phần ruột cuối hậu môn
    đa số các trường hợp đều có lớp mỡ mỏng
    Bậc 4: Ruột hầu như hoàn toàn bị mỡ bao phủ, chỉ trừ có những chỗ trống
    mà qua đó ta nhìn thấy ruột thôi. Những chỗ trống nhỏ này thường ở mấu thứ hai
    và phần thứ ba của ruột. Đôi khi cũng gặp những chỗ trống ấy ở phần thứ hai của
    ruột. Những u mỡ ở hai bên mấu ruột rất lớn
    Bậc 5: Tất cả ruột đều bị phủ một lớp mỡ dày, không có chỗ trống nào,
    những u mỡ ở hai bên mấu ruột rất lớn.
    Pravdin là người có công tổng kết các công trình nghiên cứu khoa học về
    ngư loại học. Trong đó có giới thiệu phương pháp tính ngược sinh trưởng về hàng
    năm theo tỷ lệ chiều dài thân và đường kính vẩy, được công bố bởi tác giả Einar
    Lea (1910 – 1937). Phương pháp tính này được Rosa Lee (1920) sửa đổi, bổ sung
    cho rằng không phải sinh trưởng của chiều dài thân tỉ lệ thuận với bán kính của
    vẩy mà chỉ có mức tăng của chúng tỷ lệ thuận với nhau khi đã có một kích thước
    n. Hiện nay, phương pháp của Elea (1910 - 1937) và Rosa Lee (1920) vẫn được sử
    dụng rộng rãi trong các công trình nghiên cứu về ngư loại học.
    Trong cuốn sách “Hướng dẫn nghiên cứu cá” của tác giả Pravdin đã tổng
    kết công trình nghiên cứu về sinh trưởng của hai tác giả Berverton – Holt (1956).
    Hai nhà nghiên cứu này đã giới thiệu phương trình tương quan giữa chiều dài và 7
    khối lượng của cá. Phương trình này được các tác giả Võ Văn Phú [16], [18],
    Bùi Thanh Loan [12] và nhiều tác giả khác áp dụng.
    Dựa vào số đo về chiều dài và khối lượng của cá để tính tương quan theo
    phương trình của Berverton – Holt (1956): W = a x L b
    Trong đó: - W: Khối lượng toàn thân của cá (g)
    - L: Chiều dài toàn thân cá (cm)
    - a, b: Các hệ số tương quan nhất định [29].
    Năm 1934, trong cuốn sách: “Hướng dẫn thu mẫu và xử lý dữ liệu nghiên cứu
    về thức ăn của cá” của Bogorov vạch ra cách thu thập mẫu thức ăn và cách xử lý để
    đưa ra những nhận định chính xác về dinh dưỡng của loài cần nghiên cứu [22].
    Nghiên cứu về dinh dưỡng được các nhà khoa học quan tâm, có rất nhiều
    công trình nghiên cứu về thức ăn tự nhiên, thức ăn nhân tạo, để góp phần tăng
    mức độ sinh trưởng sản lượng và khả năng tái sản xuất quần thể của cá.
    Theo Pravidin, từ đầu thế kỷ XX, có rất nhiều công trình nghiên cứu về
    dinh dưỡng đã được công bố, điển hình là các công trình nghiên cứu của các tác
    giả: Bogorov (1934), Demenieva và Ilin (1938), Pillay (1953), Brotxkaia (1939),
    Lisev (1950), Pirojnirov (1953), Borutxki (1955), Jadin (1956, 1960), .[22].
    Tác giả Bogorov năm 1934, đã giới thiệu cuốn sách: “Hướng dẫn thu mẫu
    và xử lý dữ liệu nghiên cứu về thức ăn cho cá”. Đây là một tài liệu quý cho các
    nhà nghiên cứu cá bởi nó vạch ra các cách thu thập mẫu thức ăn và cách xử lý để
    đưa ra những nhận định chính xác về dinh dưỡng của các loài cá cần nghiên cứu.
    Năm 1961, Viện hàn lâm khoa học Liên Xô đã xuất bản cuốn “Hướng dẫn
    nghiên cứu thức ăn của cá trong điều kiện thiên nhiên” do một số chuyên gia về lĩnh
    vực này viết, dưới sự chỉ đạo của Borutxki. Cuốn sách này đã trình bày đầy đủ
    phương pháp nghiên cứu thức ăn của các loài cá ăn sinh vật nổi, sinh vật đáy, ăn thực
    vật và những loài cá dữ, cho ta danh sách những tài liệu tham khảo chủ yếu [22]. 8
    1.1.3. Nghiên cứu đặc điểm sinh sản
    Năm 1923, Kixelevits đưa ra phương pháp nghiên cứu xây dựng bậc thang
    chín muồi sinh dục của cá, đưa ra sơ đồ xác định độ chín của tuyến sinh dục của
    cá gồm 6 giai đoạn chung [22].
    Năm 1937, Krokhin và Krogiu đã nghiên cứu bãi đẻ trứng của cá Hồi Viễn
    Đông ở Kamksatka. Nghiên cứu đã nêu lên được điều kiện kiện sinh thái của bãi
    đẻ trứng của cá Hồi [22].
    Theo Pravidin, trong công trình nghiên cứu của giáo sư Driagin có thông báo về
    hệ số và chỉ số chín muồi sinh dục và những tài liệu về sự di cư đẻ trứng của cá ở hồ
    Ilmen. Có thể sử dụng tài liệu này như những tài liệu có tính chất hướng dẫn về
    phương pháp để quan sát sự đẻ trứng của các cá ở các vực nước khác nhau.
    Năm 1941, trong công trình nghiên cứu về cá Vền (Abramis brama) của tác
    giả Velikokhatko đã thiết lập được mối quan hệ giữa sức sinh sản với chiều dài
    khối lượng và tuổi cá [22].
    Ngày nay, đã có rất nhiều phương pháp nghiên cứu về sinh sản của cá được
    công bố, song các phương pháp nghiên cứu của Kixelevits (1923) vẫn được sử
    dụng nhiều nhất. Ông cho rằng sơ đồ xác định độ chín của tuyến sinh dục gồm:
    - Giai đoạn I: Những cá thể chưa chín muồi sinh dục. Tuyến sinh dục chưa
    phát triển, nằm sát vào phía trong của vách cơ thể (theo hai bên hông và dưới
    bóng hơi) và là những sợi dây dài, hẹp hoặc là những đường mà mắt thường
    không thể xác định được đực cái
    - Giai đoạn II: Những cá thể trưởng thành hoặc là những sản phẩm sinh dục
    phát triển sau khi đẻ trứng. Tuyến sinh dục bắt đầu phát triển và dày thêm ra tạo
    thành trứng hoặc tinh sào, hạt trứng nhỏ, mắt thường không nhìn thấy được. Có
    thể phân biệt được buồng trứng hay tinh sào vì buồng trứng có mạch máu tương
    đối lớn, chạy dọc và hướng về phía giữa thân đập ngay vào mắt. Tuyến sinh dục
    còn nhỏ và chiếm một phần xoang cơ thể
    - Giai đoạn III: Tuyến sinh dục chưa chín nhưng tương đối phát triển.
    Buồng trứng được tăng lên nhiều về kích thước, chiếm từ 1/3 đến 1/2 xoang 9
    bụng và chứa đầy đủ những hạt trứng nhỏ, đục, hơi xám mà mắt thường trông rõ.
    Nếu cắt buồng trứng và nạo nó bằng đầu kéo để lấy ra những hạt trứng riêng, thì
    trứng khó tách ra khỏi những vách ngăn bên trong của buồng trứng và luôn luôn
    kết thành từng chùm gồm một vài hạt. Tinh sào có phần trước rộng hơn và bị hẹp
    lại ở phần sau. Bề mặt của nó màu hồng, ở một số cá màu hơi đỏ vì có nhiều
    mạch máu nhỏ. Khẽ ấn vào tinh sào, không thấy sẹ lỏng chảy ra. Khi cắt ngang
    tinh sào, các mép của nó không trơn mà sắc cạnh
    - Giai đoạn IV: Các tuyến sinh dục hầu như đạt đến mức phát triển cao nhất.
    Buồng trứng rất lớn và chiếm khoảng 2/3 xoang bụng. Hạt trứng lớn, trong suốt và
    khi ấn có sẹ chảy ra. Khi cắt buồng trứng và nạo bằng kéo, trứng rời ra từng cái
    một. Tinh sào màu trắng, chứa sẹ, rất dễ chảy ra khi ta ấn tay vào bụng cá. Nếu cắt
    ngang tinh sào, các mép của nó tròn lại ngay, và chỗ cắt có dịch nhờn chảy ra
    - Giai đoạn V: Trứng và sẹ khi chín, ta dùng tay ấn nhẹ xuống bụng cá
    trứng và sẹ sẽ chảy ra thành tia. Nếu cầm ngược cá lên, lắc nhẹ thì chúng
    chảy ra tự do
    - Giai đoạn VI: Các cá thể sau khi đẻ. Sản phẩm sinh dục không còn.
    Xoang cơ thể rỗng. Buồng trứng và tinh hoàn rất nhỏ, sưng lên, có màu đỏ thầm.
    Thông thường trong buồng trứng còn lại một ít trứng nhỏ. Những trứng đó
    chuyển biến và thoái hoá đi. Qua một vài ngày nó lại mọng lên và tuyến sinh dục
    chuyển sang giai đoạn II – III.
    1.2. Lược sử nghiên cứu cá ở Việt Nam
    1.2.1. Nghiên cứu về phân loại
    Năm 1972, tác giả Vương Dĩ Khang công bố cuốn sách “Ngư loại học”.
    Cuốn sách không chỉ giới thiệu kết quả nghiên cứu của nhiều nhà ngư loại học
    mà còn trình bày hình thái cấu trúc cơ thể cá, chu kỳ sống, môi trường, phân bố
    địa lý của nhiều loài cá [7].
    Năm 1992, Mai Đình Yên và cộng sự đã đưa ra danh sách các loài cá
    nước ngọt Nam bộ, công bố trong nghiên cứu “Định loại các loài cá nước 10
    ngọt Nam bộ”, trong đó có mô tả đặc điểm hình thái và cách phân loại loài G.
    sparsipapillus [33].
    Năm 2004 – 2005, Nguyễn Văn Khánh và các cộng sự, tiến hành nghiên
    cứu: “Thành phần các loài cá ở sông Hàn thành phố Đà Nẵng”, kết quả đã định
    loại được 85 loài cá thuộc 71 giống, 48 họ và 15 bộ. Trong đó có 15 loài có giá
    trị kinh tế, 2 loài có tên trong sách đỏ [9].
    Năm 2005, Ngô Sĩ Vân và Phạm Anh Tuấn trong công trình nghiên cứu:
    “Bước đầu nghiên cứu khu hệ cá vùng núi đá vôi Phong Nha – Kẻ Bàng tỉnh
    Quảng Bình”, kết quả công bố 177 loài trong 95 giống, 36 họ và 11 bộ [31].
    Năm 2006, Võ Văn Phú và các cộng sự trong báo cáo: “Đánh giá đa dạng
    sinh học về thành phần loài cá ở Thừa Thiên Huế”, kết quả đã xác định được 79
    loài cá thuộc 38 giống, 13 họ, 5 bộ [17].
    Năm 2009, Võ Văn Phú và Nguyễn Duy Thuận trong báo cáo: “Cấu trúc
    thành phần loài cá ở hệ thống sông Ô Lâu, tỉnh Thừa Thiên Huế”, đã xác định
    109 loài, 76 giống với 31 họ thuộc 11 bộ khác nhau, trong đó bộ cá chép chiếm
    ưu thế với 37 loài [20].
    1.2.2. Nghiên cứu về đặc điểm sinh học, sinh sản của cá
    Năm 2002, Nguyễn Tường Anh và Nguyễn Dương Dũng, kích thích cá
    chép sinh sản bằng 17α – hydroxy 20β – dihydroproggesteron. Tác giả nhận thấy
    ở liều lượng 5mg/kg luôn cho kết quả rụng trứng và sinh sản tốt [1].
    Năm 2003, Nguyễn Thanh Phương và các cộng sự tiến hành nghiên cứu đề
    tài: “Nghiên cứu đặc điểm sinh học, dinh dưỡng và sinh sản của cá Nâu
    Scatophagua argus”, kết quả đã mô tả đặc điểm hình thái, cơ quan sinh dưỡng, sự
    sinh trưởng và các giai đoạn phát triển phôi, thành thục sinh dục của cá Nâu [21].
    Năm 2003 – 2004, Nguyễn Văn Triều và các cộng sự tiến hành nghiên cứu đề
    tài: “Nghiên cứu đặc điểm sinh học của cá Kết Kryptopterus bleeker”, kết quả đã
    mô tả đặc điểm hình thái, đặc điểm dinh dưỡng và sự thành thục của cá Kết [28].
    Năm 2004, Lê Thị Nam Thuận, trong nghiên cứu: “Kết quả bước đầu về
    mối liên hệ của một số yếu tố môi trường sinh thái và sự xuất hiện các loài thủy 11
    sản vùng Thuận An, hệ đầm phá Tam Giang dựa và cộng đồng”, kết quả cho
    thấy có sự dao động mạnh về pH và độ mặn giữa các tháng, từ đó ảnh hưởng rất
    nhiều đến sự xuất hiện của các loài thủy sản, một số loài thủy sản chỉ xuất hiện
    vào một điều kiện thời tiết nhất định trong năm [26].
    Năm 2005, trong hội thảo khoa học của Viện nghiên cứu Thủy sản I, tác giả
    Nguyễn Đức Tuân và các cộng sự đã đưa ra kết quả “Nghiên cứu sinh sản nhân tạo
    cá Lăng chấm Hemibragrus guttatus (Lacepede, 1803) trong điều kiện nuôi”, kết
    quả đã xây dựng được quy trình nhân nuôi và loại thức ăn cho loài cá này [29].
    Năm 2006, tác giả Ngô Văn Triều trong báo cáo: “Kỹ thuật sinh sản nhân
    tạo và ương nuôi cá Rô đồng (Anabas testudineus Bloch, 1792) ở Đồng bằng
    Sông Cửu Long” đã chỉ ra loại thức ăn có 30% protein giúp cá thành thục tốt,
    tỉ lệ sống của cá con ương trong bể cao hơn ở ao đất, mật độ nuôi là 30
    con/100m 2 là tốt nhất [27].
    Năm 2006, Nguyễn Văn Triều và các cộng sự, trong đề tài: “Nghiên cứu
    đặc điểm sinh học của cá Kết (Kryptopterus bleekeri Gunther, 1864) ”, chỉ ra các
    loại thức ăn của cá chủ yếu nghiêng về động vật, nhất là động vật có xương
    sống, hệ số thành thục là 2,71 [29].
    Năm 2006, Phạm Trần Nguyên Thảo và các cộng sự, trong công trình
    nghiên cứu: “Đặc điểm sinh học, sinh sản của cá Đối (Liza subviridis)”, tác giả
    đã kết luận cá Đối là cá sinh sản nhiều hơn một lần trong một năm, mùa vụ sinh
    sản chính là tháng 1 đến tháng 3 hàng năm, sức sinh sản và trọng lượng cá có
    mối liên quan thuận [25].
    Năm 2006, Nguyễn Bạch Loan và các cộng sự, trong đề tài: “Đặc điểm hình
    thái, sinh học, sinh sản của cá Leo (Wallago attu Bloch & Schneider, 1801)”, đã
    kết luận hệ số thành thục của cá Leo cao nhất là 0,5 – 0,81% vào tháng 6, mùa vụ
    sinh sản trong tự nhiên là từ tháng 5 cho đến tháng 10 hàng năm [11].
    Năm 2007, tác giả Nguyễn Phi Nam, trong “Nghiên cứu sản xuất nhân tạo
    giống cá Dầy (Cyprinus centralus Nguyen et Mai, 1994) và nuôi thử nghiệm luân
    canh cá Dầy thương phẩm trong ao nuôi tôm sú thuộc đầm phá các tỉnh Thừa Thiên 12
    Huế”, đưa ra các yếu tố sinh thái ảnh hưởng tới khả năng thành thục và sinh sản của
    cá Dầy và đề xuất quy trình nhân nuôi cá Dầy hoàn chỉnh [14].
    Năm 2007, Võ Văn Phú và Bùi Minh Thắng, nghiên cứu: “Đặc tính dinh dưỡng
    của cá Sỉnh gai onychostoma laticeps (Gunther, 1896) tại hồ Phú Ninh và các vùng
    phụ cận, tỉnh Quảng Nam”, kết quả đưa ra phổ thức ăn của cá Sỉnh gai tương đối
    rộng, tuổi 1 + cường độ bắt mồi cao, hệ số béo tăng dần theo nhóm tuổi [19].
    Năm 2008, Lý Văn Khánh và các cộng sự trong nghiên cứu: “Đặc điểm
    sinh học dinh dưỡng và sinh sản của lươn đồng Monopterus albus”, kết quả lươn
    đồng là loài ăn động vật, lươn đồng có chiều dài nhỏ hơn 30cm là cái, chiều dài
    lớn 50cm là đực, chiều dài nằm từ 30 – 50cm là lưỡng tính, sức sinh sản tuyệt
    đối từ 143 – 6813 trứng/cái, sức sinh sản tương đối 4828 – 65771 trứng/kg,
    đường kính trứng ở giai đoạn IV là 0,5mm [8].
    Năm 2009, Bùi Thanh Loan, trong luận văn cao học với đề tài: “Bước đầu tìm
    hiểu đặc điểm sinh học và nuôi thử nghiệm bằng hình thức nuôi lồng loài cá Lăng
    đuôi đỏ Mystus Wyckioides ở thành phố Buôn Ma Thuột”, kết quả đã đưa ra phương
    trình tương quan giữa chiều dài và khối lượng là W = 10,7x10 -7 xL 3,3637 , phổ thức ăn
    của cá Lăng đuôi đỏ nghiêng về động vật hơn thực vật [12].
    Năm 2010, Võ Văn Phú Nguyễn Thị Hoàn trong báo cáo: “Đặc điểm sinh
    trưởng của cá chỉ vàng Selaroides leptolepis (Cuvier, 1833) ở vùng biển Thừa
    Thiên Huế”, tác giả đưa ra phương trình sinh trưởng về chiều dài và khối lượng
    theo Von Bertalanffy có dạng:
    Chiều dài : Lt = 228,6 x [1 - e -0,379( t + 0,947) ]
    Khối lượng: Wt = 215 x [1 - e -0,041(t + 0,2815) ] 2,84899
    Thành phần thức ăn chủ yếu là động vật không xương sống, hệ số béo ở
    nhóm tuổi 2 + là cao nhất [18].
    Năm 2011, Võ Văn Phú, Lê Thị Đào trong báo cáo: “Đặc điểm sinh sản của
    cá Tráp vây vàng Acanthopagrus latus (Houttuyn, 1782) tại vùng ven biển Thừa
    Thiên Huế”. Tác giả đã trình bày được tuyến sinh dục của cá biến đổi theo 5 giai 13
    đoạn, là loài lưỡng tính, biệt hóa theo hướng đực trước, cái sau. Hệ số thành thục
    cao nhất vào tháng 12 đến tháng 3, cá bắt đầu sinh sản ở tuổi 2 + [16].
    1.2.3. Nghiên cứu thủy sinh ở hồ Lắk
    Năm 1978, Nguyễn Trọng Nho nghiên cứu một số yếu tố môi trường thủy
    sinh hồ Lắk [15].
    Chương trình Tây Nguyên 2, Viện sinh thái và tài nguyên sinh vật đã khảo
    sát chung về khu rừng lịch sử văn hóa hồ Lắk, công bố hồ Lắk có 35 loài cá, 3
    loài ốc, 3 loài tôm và 2 loài cua [3].
    Năm 1996 – 2005, Phan Đinh Phúc và các cộng sự thực hiện nghiên cứu về
    chất lượng nước, sản lượng khai thác, khu hệ cá của 3 hồ Eakao, hồ Lắk và hồ
    Easup, từ đó đưa ra các biện pháp quản lý bền vững và khai thác nguồn lợi thủy
    sản ở đây. Trong đó đã đưa ra nhiều dẫn liệu sinh thái, thành phần loài, đặc điểm
    sinh học và sinh sản của khu hệ cá ở hồ Lắk [35].
    Năm 2000, Nguyễn Thị Thu Hè trong luận án tiến sĩ: “Điều tra khu hệ cá
    của sông suối Tây Nguyên”, đã khảo sát và đưa ra danh sách 86 loài cá có mặt
    tại các hồ ở Tây Nguyên, trong đó có loài cá Bống cát trắng Glossogobius
    sparsipapillus thuộc giống cá Bống cát ở hồ Lắk [5].
    1.2.4. Nghiên cứu về cá Bống cát trắng
    Cá Bống cát trắng G. sparsipapillus được Akihito và Meguro (1976) mô tả
    lần đầu tiên ở miền Nam Việt Nam (Cần Thơ) [36].
    Năm 1992, Mai Đình Yên và các cộng sự, trong: “Định loại các loài cá
    nước ngọt Nam Bộ” mô tả loài cá Bống cát trắng qua 9 mẫu thu được ở Bến
    Tre, Tân Châu như sau:
    L = 82 – 231 mm Lo = 65 – 179 mm
    D = VI; I/9 A = I/8 P = 20 V = I/5
    L.1 = 30 – 31 TR = 9 – 10 Pred = 20 – 21
    H/Lo = 17,9 T/Lo = 31,5 O/T = 13,7 OO/t = 9,6
    Thân thon dài, phía sau dẹp ngang, đầu dẹp đứng, mõm dài và nhọn. Mắt gần
    như nằm ngang trên đỉnh đầu. Hai lỗ mũi tương đối gần nhau, lỗ mũi trước hình 14
    ống. Miệng rộng, xiên, hàm dưới nhô ra, rãnh miệng kéo dài tới bờ trước của ổ
    mắt. Trên mỗi hàm có nhiều hàm răng, hàng trong và ngoài cùng nở rộng. Lưỡi
    chẻ đôi, khe mang rộng, trên má có 5 đường cảm giác chạy song song. Vảy tròn,
    trước vây lưng nhỏ kéo dài đến bờ sau ổ mắt, thân phủ vảy lược to. Vây lưng hai
    cái rời nhau, vây bụng hình bầu dục dài, vây đuôi tù. Thân có màu nâu, có 5
    đường đốm đen nhạt dọc theo đường giữa hông. Bề rộng đốm đen nhỏ hơn nửa
    chiều cao thân tại chỗ đó, trên nắp mang có màu nâu đen, có đốm đen nhạt [30].
    Năm 1993, Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương trong cuốn sách:
    “Định loại cá nước ngọt vùng Đồng bằng Sông Cửu Long” cũng mô tả giống cá
    Bống cát qua 28 mẫu phân tích cho rằng kích thước 56 – 195 mm với phần mô tả
    có một chút khác biệt: Đầu to, dẹp bằng, rộng đầu tương đương với chiều cao
    thân, mõm dài nhọn, hướng lên trên. Phần thân cá có tiết diện trọn, phần sau dẹp
    bên, thân tròn thẳng. Mặt lưng màu xám, mặt bụng màu vàng nhạt. Dọc theo
    sống lưng có những đốm màu đậm hơn, đường kính của những đốm đó lớn hơn
    so với khoảng cách giữa chúng [10].
    Năm 1996, Rainboth trong: “Fish of the Cambodian Mekong” mô tả kích
    thước của Cá Bống cát trắng G. sparsipapillus có kích thước tới 12 cm, thân
    thon dài, phía sau dẹp ngang, có 5 đường cảm giác chạy song song trên má, dọc
    sống lưng có những đốm màu đen nhạt [37].
    Năm 2000, trong luận án tiến sĩ: “Điều tra khu hệ cá của sông suối Tây
    Nguyên”, tác giả Nguyễn Thị Thu Hè đã mô tả loài Cá Bống cát trắng G.
    sparsipapillus như sau:
    L = 80 –100 mm Lo = 65 – 80 mm
    D = VI; I.9 A = I.8 P = 20 V = I.5
    H/Lo = 17% T/Lo = 31% O/T = 13% OO/t = 9%
    Thân thon dài, đuôi dẹp bên, đầu dẹp đứng, miệng rộng và xiên, mõm dài,
    hàm dưới dài hơn hàm trên, trên hàm có nhiều răng. Lưỡi chẻ đôi, trên má có 5
    đường cảm giác đơn. Vảy trước vây lưng kéo dài đến bờ sau ổ mắt. Vây lưng hai
    cái rời nhau, vây ngực tròn dài, vây bụng hình bầu dục dài vây đuôi tù. Cá có
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...