Tiến Sĩ Nghiên cứu một số cơ sở khoa học cho việc thâm canh rừng Luồng (Dendrocalamuss barbatus Hsueh et D.Z

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 26/3/15.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    MỤC LỤC
    Trang
    Trang phụ bìa
    Lời cảm ơn i
    Lời cam đoan . ii
    Mục lục . iii
    Danh mục các ký hiệu và từ viết tắt . vi
    Danh các mục bảng vii
    Danh các mục hình viii
    MỞ ĐẦU . 1
    Chương 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 5
    1.1. Đặc điểm của cây Luồng . 5
    1.2. Những nghiên cứu ở ngoài nước 6
    1.2.1. Về thâm canh rừng . 6
    1.2.2. Về thâm canh tre trúc 9
    1.2.3. Về chi Luồng (Dendrocalamus) 11
    1.3. Những nghiên cứu ở trong nước 17
    1.3.1. Về thâm canh rừng . 17
    1.3.2. Về thâm canh rừng tre trúc . 21
    1.3.3. Thâm canh rừng Luồng 26
    1.4. Thảo luận 37
    Chương 2: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 40
    2.1. Nội dung nghiên cứu 40
    2.1.1. Đánh giá hiện trạng phát triển rừng Luồng ở huyện Quan Hóa . 40
    2.1.2. Nghiên cứu cơ sở khoa học chọn điều kiện lập địa trồng Luồng . 40
    2.1.3. Nghiên cứu bổ sung cơ sở khoa học chọn giống và nhân giống Luồng 40
    2.1.4. Cơ sở khoa học cho một số kỹ thuật tác động vào rừng Luồng . 40 iv
    2.1.5. Đề xuất một số kỹ thuật trong thâm canh rừng Luồng 40
    2.2. Phương pháp nghiên cứu . 40
    2.2.1. Phương pháp luận vấn đề nghiên cứu . 40
    2.2.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể 43
    Chương 3: ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA KHU VỰC NGHIÊN CỨU . 52
    3.1. Điều kiện tự nhiên . 52
    3.1.1. Vị trí địa lý . 52
    3.1.2. Địa hình địa thế 52
    3.1.3. Khí hậu - thủy văn 53
    3.1.4. Địa chất thổ nhưỡng . 55
    3.1.5. Tài nguyên đât và rừng . 55
    3.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội . 56
    3.2.1. Đặc điểm dân cư . 56
    3.2.2. Đặc điểm kinh tế . 56
    3.2.3. Đặc điểm văn hóa - xã hội . 57
    3.3. Nhận xét và đánh giá chung . 58
    3.3.1. Những thuận lợi và cơ hội cho thâm canh rừng Luồng . 58
    3.3.2. Khó khăn, hạn chế cho thâm canh rừng Luồng . 59
    Chương 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN . 61
    4.1. Nghiên cứu hiện trạng phát triển rừng Luồng ở huyện Quan Hóa 61
    4.1.1. Hiện trạng trồng và phát triển rừng Luồng ở Quan Hóa 61
    4.1.2. Chất lượng rừng Luồng tại Quan Hóa . 64
    4.1.3. Những kỹ thuật đã áp dụng đối với rừng Luồng Quan Hóa . 72
    4.1.4. Thảo luận 79
    4.2. Nghiên cứu cơ sở khoa học cho việc chọn điều kiện lập địa trồng Luồng81
    4.2.1. Đặc điểm điều kiện lập địa của rừng Luồng 81
    4.2.2. Tiêu chuẩn phân chia điều kiện lập địa theo mức độ thích hợp cho trồng
    Luồng . 84 v
    4.3. Cơ sở khoa học chọn và nhân giống Luồng . 91
    4.3.1. Chọn lọc cây Luồng tốt để làm giống . 91
    4.3.2. Lựa chọn khóm Luồng tốt làm giống 93
    4.3.3. Nghiên cứu bổ sung cơ sở khoa học cho nhân giống Luồng . 96
    4.4. Nghiên cứu cơ sở khoa học cho một số biện pháp kỹ thuật tác động vào
    rừng Luồng . 100
    4.4.1. Cơ sở xác định biện pháp kỹ thuật tác động sinh măng . 100
    4.4.2. Đặc điểm sinh trưởng của măng Luồng 103
    4.4.3. Mô hình rừng Luồng mong muốn . 106
    4.5. Đề xuất một số biện pháp kỹ thuật trong thâm canh rừng Luồng. 117
    4.5.1. Về điều kiện lập địa trồng Luồng 117
    4.5.2. Chọn cây lấy giống và sử dụng chất kích thích ra rễ nhân giống Luồng
    bằng hom . 118
    4.5.3. Kỹ thuật chăm sóc và nuôi dưỡng rừng Luồng trên 5 năm 119
    KẾT LUẬN , TỒN TẠI VÀ KHUYẾN NGHỊ . 120
    1. Kết luận 120
    2. Tồn tại 122
    3. Khuyến nghị . 122
    TÀI LIỆU THAM KHẢO
    PHỤ LỤC
    vi
    DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ TỪ VIẾT TẮT
    Ký hiệu Viết đầy đủ
    C Khóm
    CT Công thức
    CTTN Công thức thí nghiệm
    D 1,3m , DBH Đường kính ở vị trí 1,3m (cm)
    D o Đường kính gốc (cm)
    Fa Đất đỏ vàng trên đá mácma axít
    Fe Đất nâu tím trên đá sa phiến thạch màu tím
    H vn Chiều cao vút ngọn (m)
    FAO Food and Agriculture Organization of the United Nations
    IBA Indo-ibutyric acid
    Mu Hàm lượng mùn (%)
    NAA Naphthylacetic Acid
    NC Nghiên cứu
    OTC Ô tiêu chuẩn
    RAPD Random Amplified Polymorphic DNA
    S Sai tiêu chuẩn
    S% Hệ số biến động
    SD Độ dày tầng đất (cm)
    Sh Số măng
    Sl Độ dốc mặt đất (độ)
    SP Độ xốp tầng đất (%)
    SPSS Statistical Products for Social Services
    Stem Số cây
    Stem.C Số cây/khóm
    TB Trung bình
    TH Thanh Hóa
    TN Thí nghiệm
    V Trữ lượng rừng (tấn/ha) vii
    DANH CÁC MỤC BẢNG
    STT Tên bảng Trang
    1.1
    Cách hiểu về mô hình cấu trúc rừng mong muốn theo mục đích
    kinh doanh rừng
    20
    2.1 Phân bố ô tiêu chuẩn theo 9 xã của huyện Quan Hóa 43
    2.2 Các công thức thí nghiệm nhân giống Luồng 47
    4.1
    Diện tích, phân bố và độ che phủ của rừng Luồng tại huyện
    Quan Hóa
    62
    4.2 Mật độ của rừng Luồng ở Quan Hóa 64
    4.3 Một số đại lượng sinh trưởng và trữ lượng của rừng Luồng 65
    4.4 Hiện trạng tuổi cây trong rừng Luồng tại Quan Hóa 67
    4.5 Chất lượng rừng Luồng theo tiêu chuẩn thương phẩm 69
    4.6 Chất lượng thương phẩm của cây Luồng theo tuổi 70
    4.7 Các biện pháp kỹ thuật trồng Luồng đã áp dụng ở Quan Hóa 72
    4.8 Một số nhân tố khí hậu khu vực nghiên cứu trong 3 năm 2010 - 2012 81
    4.9 Đặc điểm địa hình rừng Luồng Quan Hóa 82
    4.10 Đặc điểm đất trồng rừng Luồng ở Quan Hóa 83
    4.11
    Tiêu chuẩn phân chia điều kiện lập địa theo mức độ thích hợp
    cho rừng Luồng
    89
    4.12 Xác định mức độ thích hợp cho các lô rừng Luồng 90
    4.13 Sinh trưởng rừng Luồng trên các dạng lập địa 91
    4.14 Phân bố cây Luồng tốt trong rừng Luồng Quan Hóa 92
    4.15 Khả năng sinh và nuôi măng của khóm Luồng có cây tốt 93
    4.16 Ảnh hưởng của các loại hormon đến sự ra rễ của hom Luồng 96
    4.17 Kết quả kiểm tra sự khác nhau của công thức thí nghiệm 99
    4.18 Mức độ nâng cao của gốc Luồng theo các thế hệ măng 100
    4.19 Thời vụ măng mọc tại huyện Quan Hóa 102
    4.20 Sinh trưởng của măng Luồng tại các lập địa khác nhau 104
    4.21 Thực trạng chỉ tiêu cấu trúc và sinh trưởng của rừng Luồng 107
    4.22 Số cây mong muốn theo cấp tuổi /khóm của rừng Luồng 116 viii
    DANH CÁC MỤC HÌNH
    STT Tên hình Trang
    2.1 Mối quan hệ giữa các nội dung trong thâm canh rừng 41
    2.2 Cách tiếp cận và giải quyết các nội dung của luận án 42
    4.1 Rừng Luồng ở xã Hồi Xuân, huyện Quan Hóa năm 2012 61
    4.2 Mật độ theo tuổi cây trong rừng Luồng Quan Hóa 67
    4.3 Hiện trạng chất lượng rừng Luồng theo thương phẩm 69
    4.4 Biểu đồ tán xạ các nhân tố cấu trúc và sinh trưởng của rừng Luồng 85
    4.5
    Biểu đồ tán xạ phản ánh mối liên hệ của DBH, H với các nhân
    tố địa hình và thổ nhưỡng
    87
    4.6 Khóm Luồng tốt ở Huyện Quan Hóa 95
    4.7 Hom Luồng trước khi xử lý Hooc mon 97
    4.8 Hom Luồng giống sau 30 ngày giâm 97
    4.9 Hiện tượng nâng gốc khi sinh măng của cây Luồng 101
    4.10 Sinh trưởng đường kính của măng Luồng trên các dạng lập địa 105
    4.11 Sinh trưởng chiều cao của măng Luồng trên các dạng lập địa 105
    4.12 Sơ đồ nhánh rừng Luồng với 10 nhân tố cấu trúc và sinh trưởng 109
    4.13 Sơ đồ nhánh rừng Luồng với 3 nhân tố cấu trúc 111
    4.14
    Biểu đồ tán xạ các nhân tố cấu trúc và sinh trưởng rừng Luồng
    ở Quan Hóa
    112
    4.15
    Biểu đồ tán xạ các cặp nhân tố cấu trúc và sinh trưởng của rừng
    Luồng
    114



    1
    MỞ ĐẦU

    1. Sự cần thiết của đề tài luận án
    Thâm canh rừng trồng là một xu hướng được quan tâm nhiều cả trong lý
    luận lâm sinh học và thực tiễn sản xuất. Về lý luận, trong những năm gần đây
    các nghiên cứu về cải thiện giống cây rừng; kỹ thuật chọn lập địa, làm đất,
    bón phân; kỹ thuật quản lý bảo vệ rừng trồng và kỹ thuật khai thác sử dụng
    rừng trồng để tăng năng suất và chất lượng rừng đã được chú ý. Về thực tiễn
    sản xuất, việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật thâm canh rừng đã làm tăng
    năng suất, chất lượng rừng, đồng thời duy trì và cải thiện được tiềm năng đất
    đai, bảo vệ môi trường sinh thái. Hiện nay, trong “Đề án tái cơ cấu cấu ngành
    Lâm nghiệp” của Bộ NN &PTNT năm 2013, thâm canh rừng được xác định
    là một trong những giải pháp nâng cao giá trị gia tăng của ngành Lâm nghiệp
    Việt Nam và góp phần vào quản lý rừng bền vững [15].
    Thanh Hóa là tỉnh có nhiều diện tích rừng Luồng được trồng tập trung.
    Theo số liệu hiện trạng rừng và đất lâm nghiệp của UBND tỉnh Thanh Hóa,
    2013 [86], diện tích rừng Luồng của tỉnh Thanh Hóa năm 2012 là 70.257,08 ha,
    chiếm 39,9% diện tích rừng trồng toàn tỉnh. Ngoài tác dụng phòng hộ, rừng
    Luồng có tác dụng chính là: cung cấp thân cây để sử dụng trong xây dựng,
    nguyên liệu giấy, ván ép, vật liệu đan lát, .; cung cấp măng sử dụng làm thức
    ăn; than thân cây dùng làm than hoạt tính; mùn cưa Luồng được sử dụng để
    nuôi trồng nấm Do tính đa dạng sản phẩm mà nhu cầu thị trường đối với
    Luồng ngày càng cao, nguồn thu từ rừng Luồng ngày càng có ý nghĩa đối với
    đời sống của người dân địa phương. Vì vậy, cây Luồng được chọn làm cây
    trồng rừng chính của tỉnh Thanh Hóa, diện tích rừng Luồng ngày càng mở
    rộng. 2
    Tuy nhiên, trong phát triển rừng Luồng hiện nay mới quan tâm đến mở
    rộng diện tích trồng và một số kỹ thuật chăm sóc đơn giản nên năng suất, chất
    lượng cây Luồng thấp, tính bền vững của rừng Luồng không cao, hiệu quả
    kinh doanh rừng Luồng ngày càng thấp, nhiều diện tích rừng Luồng đã bị suy
    thoái. Thực tiễn kinh doanh rừng Luồng ở Thanh Hóa còn một số tồn tại như:
    - Việc chọn và nhân giống Luồng chưa được hoàn thiện.
    - Chưa phân chia được điều kiện lập địa thích hợp cho trồng Luồng.
    - Chưa xác định được mô hình rừng Luồng mong muốn cũng như
    những giải pháp kỹ thuật phù hợp cho khai thác rừng lâu dài và liên tục.
    Vì vậy, việc nghiên cứu xác định hệ thống các biện pháp kỹ thuật về
    chọn giống, nhân giống, trồng, chăm sóc và khai thác rừng Luồng theo hướng
    thâm canh để nâng cao năng suất, chất lượng của rừng Luồng trên địa bàn tỉnh
    Thanh Hóa là rất cần thiết.
    Để góp phần giải quyết những vấn đề nêu trên và thúc đẩy các hoạt
    động phát triển rừng Luồng ở Thanh Hóa, đề tài “Nghiên cứu một số cơ sở
    khoa học cho việc thâm canh rừng Luồng tại Thanh Hóa” đã được thực hiện.
    Phương hướng của đề tài là tập trung nghiên cứu một số cơ sở khoa học chủ
    yếu làm cơ sở đề xuất kỹ thuật thâm canh rừng Luồng. Vì hạn chế về thời
    gian và kinh phí, đề tài chỉ thực hiện trên địa bàn 9 xã thuộc huyện Quan Hóa,
    nơi diện tích rừng Luồng trồng khá tập trung, cây Luồng là loài cây truyền
    thống có đóng góp quan trọng cho đời sống và thu nhập của người dân địa
    phương.
    2. Mục tiêu của đề tài luận án
    2.1. Về lý luận
    Góp phần bổ sung một số cơ sở khoa học cho kỹ thuật thâm canh rừng
    Luồng tại huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hoá. 3
    2.2. Về thực tiễn
    Đề xuất được một số giải pháp kỹ thuật áp dụng cho thâm canh rừng
    Luồng tại huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
    3. Điểm mới của luận án
    - Đã phân loại lập địa rừng trồng Luồng dựa vào mối quan hệ giữa sinh
    trưởng rừng Luồng với một số nhân tố lập địa trên cơ sở chú ý đến tiêu chuẩn
    phân cấp chất lượng cây Luồng.
    - Đã đề xuất mô hình rừng Luồng mong muốn làm cơ sở cho việc nuôi
    dưỡng và khai thác rừng bền vững.
    4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài luận án
    4.1. Ý nghĩa khoa học
    Đề tài luận án đã tiếp cận và ứng dụng một số phương pháp mô
    phỏng những đặc trưng sinh trưởng cơ bản và mối quan hệ giữa các đặc
    trưng này với các nhân tố cấu trúc cơ bản của rừng Luồng.
    4.2. Ý nghĩa thực tiễn
    - Đề tài luận án đã xác định được một số cơ sở cho việc xây dựng tiêu
    chuẩn phân chia lập địa trồng Luồng trên quan điểm sinh thái và kinh tế.
    - Đề tài luận án đã bổ sung kỹ thuật chọn và nhân giống Luồng.
    - Đề tài luận án đã xác định được mô hình cấu trúc rừng mong muốn và
    đề xuất được các giải pháp kỹ thuật thâm canh rừng Luồng.
    5. Giới hạn của đề tài luận án
    5.1. Đối tượng nghiên cứu
    Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các Lâm phần Luồng được trồng
    thuần loài không theo các chương trình dự án, từ năm 1975 đến năm 2004
    (những lâm phần Luồng đang khai thác ổn định ở thời điểm bắt đầu nghiên
    cứu) với mục đích lấy cây làm nguyên liệu. Hàng năm rừng Luồng được khai
    thác những cây già, cây đến tuổi thành thục công nghệ. 4
    5.2. Giới hạn nghiên cứu
    - Về nội dung: Luận án chỉ tập trung nghiên cứu cơ sở khoa học về phân
    loại điều kiện lập địa trồng Luồng , chọn và nhân cây Luồng tốt và kỹ thuật tác
    động nâng cao chất lượng rừng Luồng.
    - Về địa điểm: Địa điểm nghiên cứu được thực hiện tại các khu rừng
    Luồng tập trung thuộc 08 xã và 01 thị trấn của huyện Quan Hóa bao gồm: Thị
    trấn Hồi Xuân, xã Xuân Phú, xã Hồi Xuân, xã Phú Nghiêm, xã Nam Xuân, xã
    Phú Xuân, xã Nam Động, xã Nam Tiến và xã Thanh Xuân. 5
    Chương 1
    TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

    1.1. Đặc điểm của cây Luồng
    Cây Luồng có tên khoa học là Dendrocalamus barbatus Hsueh et
    D.Z.Li, thuộc chi Luồng Dendrocalamus; Họ Hòa thảo Poaceae, Bộ hòa thảo
    Graminales.
    Luồng phân bố tự nhiên ở vùng Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa và các vùng
    khác như Nghệ An (với tên địa phương là Mét) và Sơn La (Mạy sang mú).
    Luồng là loại tre đã được trồng ở nhiều tỉnh như Hoà Bình, Sơn La, Phú Thọ,
    Tuyên Quang, Thái Nguyên và một số tỉnh Nam Trung bộ, đồng bằng sông
    Cửu Long với giống Luồng chủ yếu được lấy từ Thanh Hóa (Ngô Quang Đê và
    cs,1994) [21], (Nguyễn Hoàng Nghĩa, 2005) [55], (Lê Nguyên và cs, 1971) [56].
    Luồng là loài tre mọc cụm, thân thẳng, tròn, đường kính cây đạt tới 10 –
    12cm, cây cao 15 – 20m, vách thân dày 2cm trở lên. Phía trên và phía dưới
    vòng đốt có lớp phấn trắng. Mỗi đốt có một cành chính to, dài và 2 - 5 cành
    nhỏ hơn, gốc cành chính phình to (gọi là đùi gà) là nơi có khả năng sinh mầm
    và rễ trong nhân giống hom và chiết cành. Rễ Luồng là loại rễ chùm, mọc ra từ
    thân ngầm và các đốt sát gốc. Rễ Luồng ăn rộng xung quanh gốc tới 10 m, tập
    trung chủ yếu ở độ sâu 10 – 30cm. Thân Luồng chia làm nhiều lóng, mỗi lóng
    dài từ 15 – 40cm. Các lóng ở gốc ngắn, các lóng ở giữa thân dài hơn. Thân có
    màu xanh từ nhạt đến thẫm tùy theo mỗi tuổi của cây. Hoa Luồng mọc từ đốt
    cành, mỗi hoa có nhiều chùy, các bông chét tập hợp thành cụm hình cầu ở các
    đốt trục hoa. Khi cây Luồng ra hoa thì thân mềm, nhiều nước nên dễ đổ gẫy,
    giá trị kinh tế thấp. Thường những cây trong một bụi ra hoa cùng nhau, sau đó
    chết đồng loạt (Ngô Quang Đê và cs,1994) [21], (Nguyễn Thế Nhã, 2003)
    [53], (Nguyễn Hoàng Nghĩa, 2005) [55], (Lê Nguyên và cs, 1971) [56]. 6
    Sau khi trồng 5 năm, rừng Luồng có thể đưa vào khai thác, sau 8-10
    năm sản lượng sẽ ổn định. Phương thức khai thác là: chặt chọn từng cây theo
    cấp tuổi trong khóm. Chỉ khai thác cả khóm với những khóm ra hoa.
    1.2. Những nghiên cứu ở ngoài nước
    1.2.1. Về thâm canh rừng
    Trồng rừng thâm canh và thâm canh rừng trồng là một hệ thống các
    biện pháp kỹ thuật bao gồm từ khâu chọn giống đến trồng rừng, chăm sóc
    rừng trồng, quản lý bảo vệ rừng trồng cho đến khi khai thác sử dụng. Hệ
    thống các biện pháp sử dụng này đã được các nhà khoa học nhiều nước trên
    thế giới quan tâm nghiên cứu, có thể chia thành các giai đoạn sau:
    Trước năm 1890, trên thế giới chưa có nhu cầu trồng rừng thâm canh
    với mục đích công nghiệp, mặc dù đã có một số nước quan tâm do lượng gỗ
    từ rừng tự nhiên thiếu. Biện pháp kỹ thuật lâm sinh có ý nghĩa thâm canh
    trong giai đoạn này mới dừng lại ở việc trồng thử nghiệm các loài cây ngoại
    lai như Tectona grandis và một số loài Eucalyptus tereticornis, Eucalyptus
    robusta; ứng dụng trồng thử nghiệm hệ thống trồng “Taungya” (Mac
    Gillivray, 1990 - dẫn theo Julian Evans, 1992) [100].
    Giai đoạn 1890 - 1945, việc trồng rừng đã được nhiều nước trên thế giới
    tiến hành với nhiều loài cây trồng. Xu hướng trồng rừng bán thâm canh đã được
    áp dụng ở một số nước như Brazil vào những năm 20 và 30 của thế kỷ XX với
    việc trồng hàng trăm ngàn ha rừng Eucalyptus saligna; E.camaldulensis;
    E.tereticornis, (Penfold and Willis 1961) [102]. Nhiều tiến bộ về kỹ thuật lâm sinh
    đã được áp dụng trong trồng rừng trong thời kỳ này, như nghiên cứu của Craib ở
    Nam Phi về tỉa thưa và tỉa cành (Craib 1934, 1939, 1947); hệ thống trồng rừng
    theo kiểu “Taungya” được sử dụng rộng rãi ở Kenya vào những năm 1910 (FAO,
    1967 - dẫn theo Julian Evans, 1992) [100]. 7
    Giai đoạn (1945 - 1965), trồng rừng thâm canh bắt đầu được quan tâm,
    việc sử dụng giống cây ngoại lai trồng ở các nước nhiệt đới đã được đề xuất
    (Hội nghị lâm nghiệp thế giới, 1954) trong các chương trình trồng rừng thương
    mại ở FiJi, Papua New Guinea. Đến giai đoạn 1966 - 1980 các diện tích trồng
    thâm canh được mở rộng nhanh chóng để phục vụ cho công nghiệp chế biến
    và các nhu cầu khác, các kỹ thuật lâm sinh đã được áp dụng vào sản xuất
    được quan tâm, như ở Brazil có nơi đã chuyển đổi hơn 400.000 ha rừng kém
    chất lượng thành rừng trồng các loài cây Thông Caribeae (Pinus caribaea) và
    Bạch đàn (E. saligna) (dẫn theo Julian Evans 1992) [100].
    Từ sau năm 1980, diện tích rừng trồng công nghiệp ngày càng được mở
    rộng, hơn 14 triệu ha rừng đã được trồng trong 15 năm, Sedio (1978) đã ước
    lượng diện tích rừng trồng ở châu Mỹ La tinh giai đoạn 1980 - 1990 tăng gấp 3
    lần, sản lượng gỗ công nghiệp tăng gấp 4 lần từ trồng rừng và có thể thỏa mãn
    50% tổng yêu cầu gỗ của khu vực; Touzet (1985) khẳng định rằng “rừng trồng
    cần được phát triển và sẽ là nguồn gỗ chủ yếu cho tất cả các ngành công nghiệp
    sử dụng gỗ”. Tầm quan trọng đặc biệt và là bước đột phá trồng rừng trong giai
    đoạn này là việc nghiên cứu thử nghiệm thành công kỹ thuật nhân giống bằng
    con đường nuôi cấy mô và giâm hom (dẫn theo Julian Evans, 1992) [100].
    Như vậy, lịch sử phát triển rừng theo hướng trồng thâm canh đã
    được quan tâm từ lâu, đặc biệt trong vài thập kỷ trở lại đây. Nhiều quốc
    gia đã tập trung vào lĩnh vực nghiên cứu cải thiện giống và nhân giống
    cây rừng, vì vậy năng suất rừng trồng một số loài cây mọc nhanh như
    Keo, Bạch đàn và một số cây trồng khác ở Trung Quốc và Công Gô đã đạt
    năng suất từ 40 - 50m
    3 /ha/năm; Cộng hoà Nam Phi cũng đã tuyển chọn
    được dòng E. grandis năng suất đạt trên 40m
    3 /ha/năm; Bồ Đào Nha, Tây
    Ban Nha, Brazil thông qua con đường lai tạo giữa các loài Bạch đàn, đã
    tuyển chọn được một số tổ hợp lai cho năng suất từ 40 - 60m
    3 /ha/năm 8
    (Zebel et al, 1993), một số rừng Bạch đàn thí nghiệm bình quân đạt 100m
    3 /ha/năm
    (dẫn theo Goncalves và cộng sự, 2004) [98].
    Nghiên cứu chọn lập địa trong trồng rừng thâm canh cũng được nhiều
    nước quan tâm. Kết quả nghiên cứu của tổ chức Nông - Lương Quốc tế (FAO,
    1994) [95] ở các nước vùng nhiệt đới chỉ ra rằng: khả năng sinh trưởng của rừng
    trồng phụ thuộc rất rõ vào 4 nhân tố chủ yếu liên quan đến điều kiện lập địa là:
    khí hậu, địa hình, loại đất và hiện trạng trạng thực bì. Nghiên cứu của Laurie
    (1974) đã cho thấy đất đai ở vùng nhiệt đới rất khác nhau về nguồn gốc và lịch
    sử phát triển, điều này được thể hiện ở sự khác nhau về đặc điểm của các phẫu
    diện đất, cấu trúc vật lý, hàm lượng các chất dinh dưỡng khoáng, phản ứng của
    đất (độ pH) và nồng độ muối. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến khả năng sinh
    trưởng khác nhau của rừng trồng trên các loại đất khác nhau. Khi đánh giá khả
    năng sinh trưởng của loài Thông Pinus patula ở Swziland, Julian Evans
    (1992), đã kết luận khí hậu có ảnh hưởng khá rõ đến năng suất rừng trồng, đặc
    biệt là sự ảnh hưởng của tổng lượng mưa bình quân hàng năm, sự phân bố
    lượng mưa trong năm, lượng bốc hơi và nhiệt độ không khí. Kết quả nghiên
    cứu của Pandey (1983) [101] về loài Bạch đàn Eucalyptus camadulensis đã cho
    thấy, nếu trồng ở vùng nhiệt đới khô với chu kỳ kinh doanh từ 10 - 20 năm, năng
    suất chỉ đạt từ 5 - 10m
    3 /ha/năm, nhưng trồng ở vùng nhiệt đới ẩm, năng suất có
    thể đạt tới 30m 3 /ha/năm. Kết quả này lại một lần nữa khẳng định điều kiện lập
    địa khác nhau thì năng suất rừng trồng cũng khác nhau.
    Kết hợp với công tác cải thiện giống và chọn điều kiện lập địa, nhiều nước
    đã có các công trình nghiên cứu đồng bộ, áp dụng các biện pháp kỹ thuật lâm
    sinh hiện đại trong trồng rừng thâm canh như chọn lập địa, làm đất, bón phân và
    chăm sóc rừng . Vì vậy, năng suất của rừng cũng được tăng lên rõ rệt. Những
    kết quả nghiên cứu này cũng làm nổi bật quan điểm về thâm canh, không chỉ
    là bón phân hay tưới nước, mà là liên hoàn các biện pháp kỹ thuật ở tất cả các
    khâu trong kinh doanh rừng. 9
    1.2.2. Về thâm canh tre trúc
    Tre trúc bao gồm những loài thuộc phân họ Tre (Bambusoideae),
    họ Cỏ (Poaceae), trên thế giới có khoảng 500 loài (Dai Qihui, 1998) [94]. Tre
    trúc là một nguồn lâm sản ngoài gỗ chiếm một vị trí quan trọng trong tài nguyên
    rừng ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước vùng phía Nam và Đông
    Nam Á. Ở các nước này người dân đã biết sử dụng tre trúc từ lâu đời để tạo ra
    hàng trăm sản phẩm phục vụ thiết thực cho đời sống hàng ngày. Nhiều loài tre
    trúc là nguồn nguyên liệu quan trọng cho ngành thủ công mỹ nghệ, công nghiệp
    chế biến nông lâm sản, công nghiệp giấy sợi, công nghiệp chế biến ván nhân tạo.
    Tre trúc cũng là vật liệu trong xây dựng, kiến trúc, giao thông vận tải, . Một số
    loài tre trúc cho măng ăn ngon, đã trở thành đối tượng cung cấp nguồn thực
    phẩm có giá trị. Các sản phẩm từ tre trúc không còn bó hẹp trong biên giới của
    một số quốc gia mà đã có mặt ngày càng nhiều trên thị trường quốc tế và được
    nhiều nước châu Âu, châu Mỹ ưa chuộng.
    Chính vì vị trí quan trọng của nguồn tài nguyên này, tre trúc, đã được
    nghiên cứu từ lâu đời về nhiều mặt như: chọn giống, trồng, khai thác, sử
    dụng. Gần đây có nhiều nghiên cứu nhằm phát triển gây trồng một số loài tre
    trúc theo mô hình rừng công nghiệp thâm canh với năng suất, chất lượng cao,
    hướng theo mục đích sử dụng nhất định. Trung Quốc có khoảng 100.000 ha
    rừng tre trúc trồng lấy măng với năng suất trung bình 10 - 20 tấn/ha/năm và
    cao nhất đạt 30 - 35 tấn/ha/năm. Trung Quốc cũng có khoảng 3 triệu ha vừa
    sản xuất măng lại vừa sản xuất thân tre. Tổng sản lượng măng của Trung
    Quốc khoảng 1 triệu tấn/năm (Fu Maoyi, Xiao Jianghua, 1996) [96].
    Những nghiên cứu đầu tiên về tre trúc là các nghiên cứu về mặt phân
    loại, hình thái và sinh thái học công trình "Các loài tre trúc" của Gamble
    (1896) [97] đã đề cập tương đối chi tiết về phân bố, hình thái và một số đặc
    điểm sinh thái của 151 loài tre trúc có ở các nước Ấn Độ, Pakistan, Mianmar, 10
    Malayxia và Inđônexia. Đến đầu thế kỷ XX đã xuất hiện nhiều nghiên cứu tre
    trúc về các mặt như: lâm học, tái sinh, khai thác . Sau 10 năm tập trung
    nghiên cứu, năm 1960 công trình "Nghiên cứu sinh lý tre trúc" của Koichiro
    Ueda [41] đã tiến hành thống kê số măng bị thui hàng năm ở rừng Trúc sào
    (Phyllostachys edulis) chiếm 60 - 80%, Phyllostachys reticulata 30-50% từ
    đó đề cập đến vấn đề khai thác tận dụng măng và áp dụng biện pháp bón phân
    để tăng số lượng và kích thước của thân khí sinh.
    Công trình “Bamboo rediscovered” của Victor Cusack (1997) [107] đề
    cập đến biện pháp bón phân làm cho nhiều loài tre trúc phát triển tốt, măng to,
    nhưng phải bón một cách hợp lý tùy thuộc vào loài nhất định. Theo Alrasjid
    (2003) [91] tre được coi là một trong những loài cây sử dụng “tham lam”
    dinh dưỡng của đất. Vì vậy, không sử dụng phân bón trong trồng tre sẽ làm
    giảm sút nhanh chóng sức sản xuất của đất, dẫn đến đất rừng trồng tre sẽ
    nhanh chóng bị suy thoái.
    Fu Maoyi, Xiao Jianghua (1996) [96] với tác phẩm “Cultivation &
    Utilization on Bamboos” đã xác định những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình
    phát sinh măng, sinh trưởng và phát triển của thân khí sinh là: độ ẩm, nhiệt
    độ, dinh dưỡng, cấu trúc rừng, biện pháp lâm sinh, sâu bệnh. Đây là những
    nhân tố cần phải được quan tâm khi áp dụng các biện pháp thâm canh tăng
    năng suất măng và thân khí sinh.
    Tre trúc được gây trồng ở nhiều nước với 3 mục đích kinh doanh:
    chuyên cung cấp măng, chuyên khai thác thân khí sinh hoặc kết hợp cả lấy
    măng và chuyên khai thác thân ký sinh. Các biện pháp thâm canh tăng năng
    suất chất lượng được nghiên cứu và thực nghiệm chủ yếu là: Bón phân, điều
    chỉnh mật độ khóm trên hecta, điều chỉnh số lượng thân khí sinh để lại cho mỗi
    khóm và mỗi thế hệ, phòng trừ sâu bệnh cho từng loài cụ thể. Ngoài ra, các
    điều kiện khí hậu như lượng mưa, nhiệt độ, độ cao, điều kiện thổ nhưỡng cũng 11
    là những nhân tố ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình sinh trưởng, phát triển
    của rừng tre trúc và được chọn làm tiêu chí khi tuyển chọn loài và biện pháp
    thâm canh. Kết quả nghiên cứu của nước ngoài là nguồn tài liệu tham khảo rất
    có giá trị, đặc biệt đối với những loài có quan hệ thân thuộc cây Luồng của Việt
    Nam được chọn làm đối tượng nghiên cứu của đề tài.
    1.2.3. Về chi Luồng (Dendrocalamus)
    Chi Luồng (Dendrocalamus) có khoảng 35 loài trên thế giới, riêng
    Trung Quốc có 30 loài (ở Vân Nam có 24 loài) (Yang et al., 1999) [110];
    Trung Quốc cũng đã ghi nhận tới 410 loài, chủng và giống (Pei et al., 1999); Ấn
    Độ có 20 loài (Seethalakshmi và Kumar, 1998) [103].
    Những nghiên cứu về thâm canh các loài cây thuộc chi Dendrocalamus
    được quan tâm ở nhiều góc độ khác nhau, trong đó chủ yếu là các công trình
    nghiên cứu về các biện pháp kỹ thuật lâm sinh trong kinh doanh rừng. Có thể
    tóm tắt theo các vấn đề sau:
    - Về chọn giống, nhân giống
    Chi Dendrocalamus có thể thực hiện nhân giống bằng phương pháp hữu tính
    hoặc sinh dưỡng nhưng chủ yếu là bằng phương pháp nhân giống sinh dưỡng.
    Tại Kenya, Bernard Kingomo (2007) [92] đã đề cập đến nhân giống
    bằng cách dùng thân và gốc để tạo cây con. Nếu dùng hom thân nên lấy thân
    cây có độ tuổi từ 2 - 3 năm, cắt một đoạn có 2 đến 3 mắt để làm vật liệu, đục
    lỗ cách các mắt từ 5 – 7 cm, sau đó vùi sâu 6 – 10 cm theo hướng nằm ngang
    vào đất trộn cát, sau đó dùng axít 1-Naphthalene acetic (NAA) đổ vào lỗ đã
    đục để kích thích ra rễ. Nếu dùng gốc để trồng, chọn cây có độ tuổi 1 - 2 năm,
    đào sâu 30 - 60 cm và cắt toàn bộ gốc mang đi trồng ngay.
    Verma và Arya (1998) [108] đã nghiên cứu ảnh hưởng của thành phần
    ruột bầu đến sinh trưởng, sinh khối và khả năng hút dinh dưỡng của cây
    Dendrocalamus asper nuôi cấy mô, tác giả đã kết luận, sau 12 tháng thí
    nghiệm, thành phần ruột bầu với tỷ lệ 1 cát: 1 đất (về thể tích) làm giảm khả 12
    năng ra rễ và hàm lượng P trong rễ. Trong khi ở các thí nghiệm bón bổ sung
    phân hữu cơ thì các chỉ tiêu nghiên cứu như chiều cao, sinh khối khô và khả
    năng ra rễ của Dendrocalamus asper đều tốt hơn.
    Ngoài phương pháp nhân giống sinh dưỡng, ở một số nơi trên thế giới,
    các loài tre Luồng cũng được nhân giống từ hạt. Tại Thái Lan và Ấn Độ, việc
    nhân giống bằng hạt đã được thực hiện cho các loài cây như Dendrocalamus
    brandisii, Dendrocalamus membranaceus, Dendrocalamus strictus và
    Dendrocalamus (Bernard, 2007 và Dai Qihui, 1998) [92], [94]. Tuy nhiên, do
    cây con được tạo bằng hạt không đạt được những ưu điểm vượt trội so với cây
    con được tạo bằng thân, gốc hoặc cành. Do vậy, đến nay phần lớn cây con của
    các loài tre Luồng đều được tạo bằng phương pháp nhân giống sinh dưỡng.
    - Về điều kiện lập địa trồng rừng
    Một trong những biện pháp quan trọng của kỹ thuật trồng rừng là chọn
    được lập địa phù hợp. Việc chọn đúng lập địa sẽ nâng cao năng suất và duy trì
    lâu dài sức sản xuất của rừng. Theo kết quả nghiên cứu Bernard Kingomo (2007)
    [92] cho thấy các loài chi Luồng thường ưa thích các loại đất sét và sét pha cát.
    Tuy nhiên, dù loại đất nào thì cũng phải thoát nước tốt vì măng Luồng không
    chịu được ngập nước. Độ pH thích hợp cho Luồng là từ 4,5 - 6. Theo tác giả Dai
    Qihui (1998) [94] đã khuyến nghị nên chọn nơi có độ dày tầng đất cao, đất còn
    tốt, ẩm và thoát nước tốt để trồng các cây thuộc chi Dendrocalamus. Trồng ở các
    thung lũng, dọc bờ sông, suối và cũng có thể trồng ở chân và sườn đồi thường
    sinh trưởng tốt. Nếu trồng nơi đất khô xấu thì có thể sống nhưng măng và thân
    cây sẽ nhỏ, không mang lại hiệu quả kinh tế cao. Đây có thể coi là kinh nghiệm
    có ý nghĩa quan trọng trong việc chọn lập địa phù hợp để kinh doanh rừng
    Luồng theo hướng bền vững.
    Tại Indonesia, Sutiyono (2004) [105] đã tiến hành nghiên cứu dinh
    dưỡng đất của rừng Dendrocalamus asper Back. Kết quả nghiên cứu dinh 13
    dưỡng của đất ở các tầng từ 0 – 20cm và 20 – 40cm dưới tán rừng, tác giả chỉ
    ra độ chua, hàm lượng mùn, ni tơ, kali, các ion K +
    , Na
    +
    , Ca
    +
    , Mg
    +
    và các
    cation trao đổi đều rất thấp ở cả 2 tầng đất. Nhìn chung hàm lượng các chất
    dinh dưỡng đều rất thấp, riêng phốt pho tổng số là cao ở cả 2 tầng. Về thành
    phần cơ giới của đất, ở tầng từ 0 – 20cm thành phần cơ giới là sét với hơn
    45% là sét và 34% là cát. Silicate (Si) ở tầng 0 - 20cm cao hơn so với tầng từ
    20 – 40cm. Nguyên nhân là do quá trình phân huỷ lá ở tầng đất mặt nhanh
    hơn so với tầng đất sâu.
    - Về biện pháp kỹ thuật tác động vào rừng
    + Về xử lý đất và thực bì, Bernard (2007) [92] trước khi làm đất trồng
    rừng Dendrocalamus nên xử lý thực bì bằng cách phát dọn cỏ, cây khóm.
    Kích thước và cự ly hố tùy thuộc vào phương pháp và loài cây trồng. Đối với
    các loài cây có kích thước to thì hố đào thường có kích thước là 60cm x 60cm
    x 60cm. Nơi có lượng mưa trung bình thấp, nên đào hố to hơn so với nơi có
    lượng mưa cao. Hố sau khi đào được lấp gần đầy, thấp hơn miệng hố khoảng
    10 cm, có thể trộn 2kg phân lân hoặc phân chuồng cho mỗi hố. Đất được lấp
    trước khi trồng 1 tháng. Theo Dai Qihui (1998) [94] có 3 phương pháp làm
    đất như sau: (i) làm đất toàn diện: cuốc sâu 20cm, sau đó đào hố theo kích
    thước và cự li đã thiết kế. (ii) Làm đất theo băng: cày đất theo băng có chiều
    rộng 1-2m và sâu 20cm, cự li giữa các băng cày 1-2m. (iii) Làm đất cục bộ
    theo hố: đào các hố theo cự li mong muốn, kích thước hố chiều dài x chiều
    rộng x chiều sâu tương ứng là 50cm x 50cm x 40cm hoặc 100cm x 50cm x
    40cm, mật độ trồng với các loài Dendrocalamus có đường kính thân cây nhỏ
    hơn 6cm là 1.660 cụm/ha, đối với những loài có đường kính thân cây to hơn
    thì mật độ trồng khoảng 830 cụm/ha (3m x 4m) hoặc 625 cụm/ha (4m x 4m).
    Với một số loài cây to như Dendrocalamus giganteus cự li giữa các cụm là
    10m x 10m (tương đương 100 cụm/ha) hoặc Dendrocalamus hamiltonii thì cự 14
    li giữa các cụm là 7m x 7m (tương đương 205 cụm/ha). Ngoài biện pháp làm
    đất như đã nêu trên, TIFAC (2004) [106] đã khuyến cáo nên đào rãnh và lên
    líp để trồng, Luồng trồng trên líp do đất xốp nên sẽ phát triển nhanh, trong các
    năm sau có thể đào thêm đất trong rãnh và bổ sung vào líp. Kích thước hố có
    thể là 60cm x 60cm x 60cm. Bón 5kg phân chuồng, 0,1kg urê, 0,1kg super lân
    và 0,05kg kli.
    + Về phương thức trồng, Fu Maoyi (1996) [96] cho thấy có thể trồng
    Dendrocalamus thuần loài hoặc hỗn loài với các loài cây lá rộng hoặc trồng
    theo phương thức nông lâm kết hợp. Tác giả cho biết, tại Trung Quốc
    Dendrocalamus có thể trồng xen với cây chè, trong đó cự li trồng của
    Dendrocalamus là 6m x 4m và cự li trồng chè là 2m x 0,5m. Với mô hình
    trồng hỗn loài với cây lá rộng là 7:3 hoặc 8: 2. Mô hình trồng với các loài cây
    lá kim và cây lá rộng thì tỷ lệ Dendrocalamus với cây lá kim và cây lá rộng là
    6:1:3 hoặc 7:1:2. Trong mô hình trồng xen với các loài cây nông nghiệp trong
    khi chưa khép tán có thể trồng xen nhiều loài cây khác nhau như: dưa hấu;
    đậu tương; khoai lang; mía và các loại rau khác. Tuy nhiên, để kinh doanh
    theo phương thức này được bền vững theo tác giả các cây nông nghiệp nên
    trồng cách Dendrocalamus 1m để có không gian dinh dưỡng cho
    Dendrocalamus phát triển. Ngoài ra còn có thể trồng Dendrocalamus xen cây
    dược liệu hoặc xung quanh ao cá, đồng ruộng v.v Như vậy, có thể trồng
    hỗn loài Dendrocalamus với các loài cây khác sẽ có tác dụng hạn chế sự suy
    thoái của rừng và tăng giá trị kinh tế của rừng.
    + Về kỹ thuật trồng, Dai Qihui (1998) [94] cho biết dù cây con
    Dendrocalamus được tạo hạt hay từ nhân giống sinh dưỡng, trước khi trồng
    nên cắt ngọn chỉ để lại 2-3 đốt. Đối với cây con được tạo từ hạt thì đặt cây con
    ở tư thế thẳng đứng, lấp đất và phủ lên gốc cây 3 - 4cm. Với cây đem trồng
    bằng gốc, đặt cây ở tư thế thẳng đứng, lấp đất và phủ đất cách cổ rễ 10cm. 15
    + Về kỹ thuật bón phân, Dai Qihui (1998) [94] cho biết: đối với cây
    Dendrocalamus trồng lấy măng, để sản xuất 100kg măng tươi, cây cần 500 –
    700g Nitơ, 100 – 150g Phốt pho và 200 – 250g Kali từ đất. Như vậy, nếu
    muốn thu hoạch 15.000kg măng tươi trên ha mỗi năm cần bổ sung từ 75 –
    100kg Nitơ, 15 - 22,5kg Phốt pho và 37,5kg Kali. Nếu không dùng các loại
    phân hóa học nêu trên, bón 37.500kg phân chuồng cho 1ha hàng năm cũng có
    thể bổ sung lượng dinh dưỡng cần thiết trên. Việc bón phân chia làm nhiều
    lần trong năm. Đối với tre Luồng trồng lấy thân, để sản xuất 1.000 kg thân tre
    Luồng cần 2,5 - 3,5kg Nitơ, 0,3 - 0,4kg Phốt pho và 3 – 4 kg Kali từ đất. Theo
    Fu Maoyi, XiaoJianghua (1996) [96] đã xác định những nhân tố ảnh hưởng
    đến quá trình phát sinh măng, sinh trưởng và phát triển của thân khí sinh là:
    độ ẩm, nhiệt độ, dinh dưỡng, cấu trúc rừng, biện pháp lâm sinh, sâu bệnh.
    Đây là những nhân tố cần phải được quan tâm khi áp dụng các biện pháp
    thâm canh tăng năng xuất măng và thân khí sinh. Victor Cusack (1997) [107]
    cho rằng biện pháp bón phân làm cho nhiều loài tre trúc phát triển tốt, măng
    to, nhưng phải bón một cách hợp lý tuỳ thuộc vào loài nhất định. Nghiên cứu
    về chu trình dinh dưỡng trong rừng Bambusa bambos các tác giả
    Shanmughavel và Fracis (1997) [104] cho biết lượng dinh dưỡng trong cây
    đứng gia tăng theo tuổi của cây, vì vậy lượng dinh dưỡng trả lại cho đất
    không đủ so với lượng dinh dưỡng mà cây đã lấy đi. Nghiên cứu của Jha và
    Lalnunmawia (2004) [99] về trồng xen giữa các loài cây Dendrocalamus
    hamiltonii, D.longispathus và gừng trong các công thức thí nghiệm về bón
    phân đã cho thấy sản lượng của các loài trong các thí nghiệm bón phân cao
    hơn rõ rệt so với công thức không bón phân. Trung tâm nghiên cứu tre trúc
    Trung Quốc (2001) [93] bằng các thí nghiệm với loài Dendrocalamus
    latiflorus (tre Bát độ) và Dendrocalamus oldhamii (Lục trúc) cho thấy phân
    bón làm tăng nhiệt độ trong đất giúp không khí và nước lưu thông tốt hơn, 16
    kích thích măng ra sớm hơn, sản lượng măng và thân khí sinh tăng cao hơn.
    Điều này cho thấy việc bón phân cho rừng Dendrocalamus là rất cần thiết
    nhằm kinh doanh rừng bền vững và có năng suất cao.
    + Về kỹ thuật khai thác, thu hoạch. Theo Dai Qihui (1998) [94], đối với
    các loài tre trồng để lấy măng, nếu muốn chế biến măng khô, khi kích thước
    măng có chiều cao đạt từ 1,3 - 1,5m có thể tiến hành thu hoạch, nếu muốn chế
    biến thành các sản phẩm khác, thu hoạch măng non có chiều cao khoảng
    30cm. Khi khai thác măng, không nên khai thác quá mức mà cần để lại để
    đảm bảo mật độ và sức sản xuất của rừng. Nhìn chung, mỗi khóm nên để lại 3
    - 4 măng để phát triển thành cây. Đối với các loài tre trồng để lấy thân, do
    măng mọc đầu và giữa mùa thường là những măng khỏe và chiếm khoảng
    85% tổng số măng của mùa nên cần giữ lại măng này để khai thác cây. Chỉ
    nên thu hoạch các măng mọc cuối mùa.
    + Về sâu bệnh hại, Xu Tiansen (1998) [109] cho biết các loài chi
    Dendrocalamus thường gặp các loại sâu ăn lá, sâu đục thân, sâu hút nhựa, sâu
    ăn búp măng. Tùy vào đặc điểm từng loại sâu tác giả đã đưa ra các biện pháp
    phòng trừ thích hợp như: làm cỏ, xới đất, sử dụng các thiên địch, sử dụng các
    loại thuốc hóa học để tiêu diệt và hạn chế sự phát triển của các loài sâu, bệnh hại.
    Nhìn chung, các nước như Trung Quốc, Ấn Độ, Australia, Indonesia,
    Nhật Bản đã nghiên cứu rất nhiều về tre trúc, đặc biệt trong thâm canh nâng
    cao năng suất rừng. So với Việt Nam họ đã đạt được nhiều tiến bộ hơn như:
    đã nhân giống bằng phương pháp nuôi cấy mô thành công giống để sản xuất
    cây con với số lượng lớn mà có thể kiểm soát được nguồn giống tốt mang
    nguyên đặc điểm tốt của bố, mẹ và không nhiễm bệnh; trồng tre trúc bằng
    phương pháp hỗn giao nhiều loài cây với tỷ lệ thích hợp để tận dụng tốt
    không gian dinh dưỡng, nâng cao sức sản xuất của rừng, tăng tính bền vững;
    cân bằng dinh dưỡng trong đất bằng cách bón một lượng phân tương ứng với 17
    lượng dinh dưỡng đã mất do khai thác đã nâng cao sức sản xuất và ổn định
    trong suốt chu kỳ kinh doanh, khai thác cây và măng hợp lý đảm bảo cho sự
    bền vững của rừng. Các kết quả này là cơ sở quan trọng trong việc xây dựng
    các biện pháp kỹ thuật thâm canh rừng Luồng tại Thanh Hóa.
    1.3. Những nghiên cứu ở trong nước
    1.3.1. Về thâm canh rừng
    Thâm canh rừng là một hình thức tái sản xuất mở rộng trong lĩnh vực
    kinh doanh lâm nghiệp bằng các biện pháp đầu tư kỹ thuật theo chiều sâu
    nhằm nâng cao năng suất, chất lượng diện tích phần rừng trên từng đơn vị
    diện tích canh tác và hạ giá thành trên từng đơn vị quần thể rừng (Từ điển
    Bách Khoa nông nghiệp. NXB Hà Nội 1991) [81]. Đó là khái niệm chung
    chỉ rõ mục tiêu định hướng yêu cầu của biện pháp tác động của thâm canh
    rừng nói chung là nâng cao chất lượng và hạ giá thành bằng cường độ và
    chiều sâu đầu tư.
    Thâm canh rừng trồng là tăng cường đầu tư các biện pháp kỹ thuật tổng
    hợp tác động vào rừng từ khâu tạo cây con, làm đất trồng rừng, chăm sóc bảo
    vệ rừng đến khâu khai thác rừng nhằm nâng cao số lượng và chất lượng lâm
    sản, đồng thời củng cố tiềm năng tự nhiên của rừng để nâng cao sức sản xuất
    của rừng (Nguyễn Xuân Xuyên và các cộng tác 1985) [88].
    Theo Phùng Ngọc Lan (1986) [42] thâm canh rừng trồng là nhằm bảo
    vệ và sử dụng triệt để các điều kiện về tài nguyên, khí hậu, đất đai, sinh vật và
    áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại có liên quan để nâng cao
    năng suất rừng và hiệu quả kinh tế. Thâm canh rừng đòi hỏi một hệ thống các
    biện pháp kỹ thuật lâm sinh tổng hợp liên hoàn từ khâu chọn loại cây trồng,
    chọn giống, kỹ thuật gieo trồng, chăm sóc, tỉa thưa dựa trên mô hình mật độ
    tối ưu cho đến đảm bảo tái sinh trong khai thác.
    Theo Nguyễn Xuân Quát [59], [60] Trồng rừng thâm canh là một
    phương pháp canh tác dựa trên cơ sở được đầu tư cao bằng việc áp dụng các
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...