Đồ Án Nghiên cứu một số chế phẩm dược liệu có nguồn gốc từ Nấm Linh Chi ở Việt Nam

Thảo luận trong 'Sinh Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    MỞ ĐẦU
    Trong những năm gần đây ngành nuôi trồng nấm phát triển mạnh mẽ trên cả nước, tổng các loại nấm ăn và nấm dược liệu trong năm 2006 ước tính đạt khoảng 1,5 triệu tấn. Nghề nuôi trồng nấm ra đời đã góp phần giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người nông dân và làm giàu cho rất nhiều hộ gia đình. Với nguồn nguyên liệu chủ yếu là phế thải nông nghiệp và công nghiệp, do đó ngành nuôi trồng nấm đã góp phần giải quyết nạn ô nhiễm môi trường đang xảy ra trên toàn cầu. Đặc biệt hơn nữa, nấm không chỉ là nguồn dinh dưỡng an toàn cho con người mà nấm còn được xem như là một trong những nguồn dược liệu quí mà hiện nay đang được sử dụng để chữa bệnh ngày càng phổ biến.
    Trong đó, linh chi được xem như là một loại tiên dược, có thể chữa được bách bệnh, giúp con người trường thọ. Các nghiên cứu dược học hiện đại đã chứng minh linh chi chứa tới 120 chất, bao gồm các hợp chất hữu cơ, các nguyên tố vi lượng và các vitamin . linh chi có tác dụng đặc biệt đối với các triệu chứng suy giảm miễn dịch, căng thẳng thần kinh suy sụp tinh thần, giải độc kém, ít ngủ, các triệu chứng của hệ tim mạch, ăn không ngon, bệnh béo phì, da xấu do nhiều nếp nhăn. Linh chi cũng có tác dụng trong việc ngăn ngừa bệnh AIDS và làm chậm quá trình phát bệnh ở bệnh nhân đã mắc phải bệnh này. Họ đã sử dụng các phương pháp bào chế thông thường là ngâm rượu, cắt lát nấu lấy nước, nghiền bột để uống, cũng có thể bào chế thành viên nang, viên hoàn thuốc tiêm [1].
    Ở Nhật Bản, người ta sử dụng nấm như là nguồn thực phẩm và dược phẩm hàng đầu, do đó họ có sức khỏe rất tốt và tuổi thọ cao. Không chỉ dùng đơn thuần dạng nấm tươi mà ở Nhật nấm còn được sản xuất thành nhiều dạng sản phẩm như: nước tương, bột nấm, nước chao, súp nấm, thực phẩm chức năng bổ, các loại, thuốc, trà .để điều trị một số bệnh như: viêm phế quản mãn tính, bệnh tim mạch, viêm gan cấp và mãn, viêm khớp, viêm phổi .
    Nước ta có nhiều điều kiện thuận lợi để nghề nuôi trồng nấm phát triển. Với khí hậu nhiệt đới gió mùa là điều kiện phù hợp cho ngành trồng nấm quanh năm, nguồn nguyên liệu dồi dào, lực lượng lao động đông. Trong khi đó, trồng nấm thì không cần đất mà chỉ cần diện tích nhỏ, vốn đầu tư thấp, vòng quay ngắn, hiệu quả cao gấp chục lần so với cây lúa .
    Xã hội ngày càng phát triển, điều kiện sống và nhu cầu của con người ngày càng cao, kéo theo đó là các bệnh tật hiểm nghèo cũng xuất hiện ngày càng nhiều. Việc điều trị bằng các loại thuốc, hóa chất trị liệu hiện nay vẫn còn rất khan hiếm và đắt tiền so mức thu nhập của người Việt Nam (chưa kể đến các tác dụng phụ). Trong khi đó nấm Linh chi với giá thành tương đối rẻ và có hiệu quả cao trong việc điều trị và làm thuyên giảm một số căn bệnh như: ung thư, đái đường, các vấn đề về tim mạch, hô hấp, HIV,
    Chính những lý do như trên mà chúng tôi đã đề xuất đề tài “Nghiên cứu một số chế phẩm dược liệu có nguồn gốc từ nấm linh chi ở Việt Nam” nhằm góp phần đa dạng hơn về các chế phẩm thuốc từ nấm, hạn chế phần nào các bệnh tật hiểm nghèo đang ngày càng tràn lan.


    Chương I. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
    1.1. Tình hình nuôi trồng nấm ăn và dược liệu ở Việt Nam và trên thế giới
    1.1.1. Tình hình nuôi trồng nấm ăn và nấm dược liệu trên thế giới
    Hiện nay, nghề trồng nấm đã phát triển trở thành một ngành công nghiệp ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt phải kể đến là Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ, .
    Việc nuôi trồng nấm linh chi được ghi nhận từ năm 1621, nhưng đến 300 năm sau (1936), với thành công của GS Dật Kiến Vũ Hưng (Nhật) thì ngành nuôi trồng nấm mới được phổ biến. Nếu tính từ 1979 sản lượng nấm linh chi khô ở Nhật đạt 5 tấn/năm thì đến năm 1995, sản lượng lên đến gần 200 tấn/năm. Như vậy là 16 năm, sản lượng nấm linh chi của Nhật đã tăng gấp 40 lần [4].
    Hàng năm, thế giới sản xuất khoảng 4300 tấn nấm linh chi, trong đó riêng Trung Quốc trồng khoảng 3000 tấn, còn lại các quốc gia khác như: Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Thái Lan, Hoa Kỳ, Malaysia, Việt Nam, Indonesia, Srilanca. Trong khi Nhật Bản là nước đưa ra kỹ thuật nuôi trồng nhưng hiện nay đứng sau Trung Quốc. Kỹ thuật nuôi trồng linh chi ngày càng phát triển và tại Việt Nam nhiều nhà nghiên cứu đã thành lập một trại nuôi trồng và bào chế linh chi ở Sài Gòn từ năm 1987 [9].
    Nhóm nấm quý họ linh chi (Ganodermataceae) sống trên cây, trên gỗ hay rễ cây mục. Cho tới nay đã có 386 tên loài được ghi nhận trên toàn thế giới, trong đó 221 loài được các nhà khoa học công nhận, hơn 200 loài còn lại là các loài đồng nghĩa, các loài được sắp xếp nhầm vào họ linh chi và gần 10 loài chưa xác định loại được.
    Trên thế giới, đặc biệt là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan thì từ lâu nấm linh chi đã được nghiên cứu và sử dụng vào việc phòng và điều trị bệnh. Đến nay công nghệ nuôi trồng nấm ở các quốc gia này đã phát triển ở quy mô công nghiệp hiện đại và đem lại nguồn thu khá lớn trong kim ngạch xuất khẩu. Sản xuất nấm phát triển đã tận dụng nguyên liệu thừa trong các ngành công nghiệp, nông lâm nghiệp, cùng một lúc đem lại sản phẩm có giá trị, hiệu quả kinh tế cao, đồng thời góp phần không nhỏ trong việc bảo vệ môi trường.
    Đến nay việc nghiên cứu về nấm linh chi không còn giới hạn trong phạm vi đất nước Trung Quốc, mà đã mang tính toàn cầu. Hiện nay có khoảng 250 bài báo của các nhà khoa học trên thế giới đã được công bố liên quan tới dược tính và lâm sàng của linh chi. Tháng 7 /1994, Hội nghị Nấm học thế giới tại Vancouver, Canada đã nhất trí thành lập viện nghiên cứu linh chi Quốc Tế, đặt trụ sở tại NewYork (Hoa Kỳ) [8].
    Nhiều công trình nghiên cứu về linh chi đã chứng minh trong linh chi chứa nhiều hợp chất germanium và polysaccharid có tác dụng thúc đẩy quá trình trao đổi chất; làm chậm quá trình lão hóa; tăng cường miễn dịch cho cơ thể; nâng cao khả năng đề kháng bệnh; điều tiết hệ thần kinh trung ương, giúp thăng bằng cơ năng; ổn định huyết áp; bảo vệ gan; bổ não, tăng trí thông minh, tăng trí nhớ; giảm nhẹ các tác dụng phụ ở bệnh nhân ung thư khi điều trị bằng hóa dược liệu; .Chính vì thế mà ở châu Á việc sử dụng linh chi làm thuốc, thực phẩm chức năng, trà thuốc trở nên rất phổ biến và số người sử dụng linh chi ngày càng một tăng trong những năm gần đây [1].


    Chương IV. KẾT LUẬN
    Qua nghiên cứu đề tài quy trình sản xuất ra một số chế phẩm từ nấm linh chi chúng tôi đưa ra một số kết luận như sau:
    4.1. Tìm ra được quy trình chiết xuất các hoạt chất linh chi
    - Chiết xuất polysaccharid liên kết protein (PSP)
    - Chiết xuất 3- terpen
    - Chiết xuất alcaloid
    4.2. Tìm ra được quy trình sản xuất chế phẩm linh chi
    - Thuốc sắc
    - Siro linh chi
    - Cồn linh chi
    - Polysaccharid linh chi
    - Thuốc viên nang linh chi
    - Thuốc tiêm linh chi
    - Thuốc hạ cholesterol
    - Trà linh chi
    - Rượu linh chi
    - Nước cốt linh chi
    - Bột bào tử nấm
    - Nấm sấy khô
    - Linh chi bào tử phá vách
    Từ những kết quả này với điều kiện sẵn có của Trường Cao Đẳng Lương Thực - Thực Phẩm, chúng tôi đề xuất một số quy trình chiết xuất hoạt chất linh chi và sản xuất một số chế phẩm như sau:
    1. Chiết xuất polysaccharid liên kết protein (PSP)
    2. Chiết xuất alcaloid
    3. Rượu linh chi
    4. Nước cốt linh chi
    5. Bột bào tử nấm
    6. Nấm sấy khô
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...