Luận Văn Nghiên cứu giá trị của Protein phản ứng C và Interleukin- 6 trong đánh giá mức độ nặng nhẹ của viêm

Thảo luận trong 'Y Khoa - Y Dược' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 18/1/14.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    đặt vấn đề
    Viêm tụy cấp là một bệnh cấp tính thường gặp trên lâm sàng, tỷ lệ bệnh là 5,4- 79,8/100.000 dân. Bệnh có xu hướng ngày càng tăng, lý do chưa rõ nhưng có thể liên quan đến sự gia tăng sử dụng rượu và khả năng chẩn đoán bệnh ngày càng được nâng cao [14], [21], [82].
    Viêm tụy cấp là một bệnh có diễn biến phức tạp, khó đoán trước và có thể gây nhiều biến chứng nguy hiểm, tỷ lệ tử vong cao trong trường hợp nặng. Theo các thống kê mới nhất, khoảng 85% các bệnh nhân viêm tụy cấp thuộc loại viêm tụy kẽ (phù tụy) và 15% là viêm tụy cấp hoại tử, trong đó có khoảng 33% bệnh nhân viêm tụy cấp hoại tử có nhiễm trùng hoại tử. Tỷ lệ tử vong của viêm tụy cấp khoảng 5% (2- 9%, tùy từng nghiên cứu); tỷ lệ này là 3% (1- 7%) trong viêm tụy kẽ và tăng tới khoảng 17% (8- 39%) đối với viêm tụy cấp hoại tử (12% ở viêm tụy cấp hoại tử vô trùng và 30% đối với viêm tụy cấp hoại tử nhiễm trùng). Các bệnh nhân viêm tụy cấp không có biến chứng suy tạng có tỷ lệ tử vong là 0%, và là 3% nếu có suy một tạng, tỷ lệ tử vong tới 47% (28- 69%, tùy từng nghiên cứu) đối với bệnh nhân có suy đa tạng [21].
    Trong thực hành lâm sàng, sau khi chẩn đoán viêm tụy cấp được khẳng định, việc đánh giá về mức độ bệnh trong thời gian sớm nhất sẽ có lợi ích rất lớn, nó quyết định việc lựa chọn cách thức điều trị thích hợp, từ đó có thể ngăn chặn sự phát triển của các biến chứng và làm giảm tỷ lệ tử vong. Tuy nhiên, các biện pháp điều trị chỉ thực sự có hiệu quả khi được tiến hành sớm trong vòng 24- 48 giờ kể từ khi bệnh bắt đầu [76], [125].
    Có nhiều phương pháp đã được sử dụng để đánh giá mức độ nặng nhẹ và tiên lượng của viêm tụy cấp như đánh giá dựa vào lâm sàng, dựa vào các bảng điểm Ranson, Imrie (Glasgow), APACHE và dựa vào chụp cắt lớp vi tính. Tuy nhiên, không có phương pháp nào trên đây có khả năng xác định mức độ và tiên lượng của viêm tụy cấp một cách chính xác ngay trong giai đoạn sớm của bệnh.
    Hiện nay, vấn đề dự báo sớm (tiên lượng) mức độ nặng nhẹ của viêm tụy cấp vẫn đang còn nhiều tranh cãi trên phạm vi toàn thế giới, nhất là việc lựa chọn phương pháp áp dụng.
    Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy, ở các bệnh nhân viêm tụy cấp, mức độ tăng nồng độ các cytokine trong máu có liên quan với sự phát triển của các biến chứng như suy tạng, hoại tử, nhiễm trùng. Trên cơ sở đó, đã có một số xét nghiệm được sử dụng để đánh giá mức độ nặng nhẹ của viêm tụy cấp, hiện nay xét nghiệm định lượng Protein phản ứng C (CRP) được coi là xét nghiệm tiêu chuẩn và Interleukin- 6 là xét nghiệm được cho là có nhiều hứa hẹn nhất trong tương lai gần [37], [122], [125], [134].
    ở Việt Nam, việc xác định mức độ nặng nhẹ của viêm tụy cấp chủ yếu dựa vào đánh giá lâm sàng và một số xét nghiệm cổ điển. Để hiểu rõ hơn về bệnh và nghiên cứu lựa chọn phương pháp xác định mức độ nặng nhẹ của viêm tụy cấp phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu giá trị của Protein phản ứng C và Interleukin- 6 trong đánh giá mức độ nặng nhẹ của viêm tụy cấp” nhằm 2 mục tiêu sau:
    1. Khảo sát mối liên quan của nồng độ Protein phản ứng C và Interleukin- 6 huyết thanh với tình trạng nặng nhẹ của viêm tụy cấp.
    2. Đối chiếu giá trị của Protein phản ứng C và Interleukin- 6 huyết thanh với lâm sàng và một số chỉ tiêu cận lâm sàng trong đánh giá mức độ nặng nhẹ của viêm tụy cấp.

    Những đóng góp mới của luận án:
    - Ghi nhận sự thay đổi nồng độ (NĐ) IL-6 huyết thanh của các BN VTC theo thời gian diễn biến của bệnh. Xác định mối tương quan chặt chẽ về NĐ của IL-6 và CRP huyết thanh của các BN VTC.
    - Phát hiện mối liên quan giữa nồng độ của IL-6 và CRP trong huyết thanh với MĐ nặng nhẹ của bệnh VTC.
    - Chứng minh được lợi ích và giá trị tin cậy của XN IL-6 và CRP trong việc dự báo (tiên lượng) MĐ của bệnh VTC. Có so sánh với một số phương pháp đang được sử dụng rộng rãi trên thế giới là bảng TL Imrie và chụp cắt lớp vi tính (bảng điểm CTSI).
    - Góp phần đưa ra những khuyến cáo về áp dụng XN IL-6 và CRP trong việc TL MĐ nặng nhẹ của các BN VTC trong điều kiện thực tế Việt Nam.
    Cấu trúc luận án: Luận án được trình bày trên 117 trang giấy khổ A4 không kể tài liệu tham khảo và các phụ lục.
    - Đặt vấn đề: 2 trang.
    - Chương 1: Tổng quan tài liệu, 28 trang.
    - Chương 2: Đối tượng và phương pháp nghiên cứu, 14 trang.
    - Chương 3: Kết quả nghiên cứu, 33 trang.
    - Chương 4: Bàn luận, 38 trang.
    - Kết luận: 1 trang.
    - Kiến nghị: 1 trang.
    Luận án gồm 4 hình, 48 bảng và 16 biểu đồ. Phần đầu có lời cảm ơn, mục lục và danh mục chữ viết tắt. Phần tài liệu tham khảo gồm 175 tên tài liệu tham khảo tiếng Việt và tiếng Anh. Phần phụ lục gồm có danh sách các bệnh nhân nghiên cứu, một số hình ảnh minh họa và mẫu bệnh án nghiên cứu.
     
Đang tải...