Luận Văn Nghiên cứu gây tạo Trầm hương bằng phương pháp vi sinh và hoá học

Thảo luận trong 'Sinh Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Cây Dó bầu còn gọi là cây Trầm hương, hay cây Kỳ nam, trong gỗ của nó có
    khả năng sinh ra một loại sản phẩm đặc biệt gọi là Trầm hương hay là Kỳ nam. Trầm
    hương có rất nhiều công dụng đã được biết và được sử dụng từ hàng ngàn năm qua, ở
    nhiều nước trên thế giới. Từ xưa đến nay Trầm hương và Kỳ nam là loại sản phẩm đặc
    biệt quý hiếm của rừng mà thiên nhiên đã ưu ái ban tặng cho con người. Chính vì vậy
    mà Trầm hương có giá trị kinh tế rất cao trên thị trường. Điều này đã làm cho cây Dó
    bầu trở thành loài thực vật đặc biệt được nhiều nhà khoa học và người dân chú ý, có
    giá trị đặc biệt về mặt nghiên cứu khoa học ở Việt Nam nói riêng và các nước trên thế
    giới nói chung.
    Tuy nhiên, những nghiên cứu có tính hệ thống về sự hình thành Trầm hương
    trên cây Dó bầu chỉ mới bắt đầu từ vài thập niên gần đây. Hầu hết các kết quả nghiên
    cứu được công bố đều chưa đưa ra được các quy trình tối ưu cũng như là cơ chế hình
    thành Trầm hương để có thể áp dụng rộng rãi ra sản xuất đại trà.
    Trong khi đó cùng với sự mất rừng thì nguồn Trầm hương tự nhiên cũng ngày
    càng cạn dần. Các loài thuộc chi Aquilaria có khả năng cho Trầm bị khai thác cạn kiệt.
    Ở Việt Nam những người khai thác Trầm chặt đốn bừa bãi những cây Dó bầu ở bất kỳ
    độ tuổi nào. Với cách khai thác như vậy thì chỉ trong một thời gian ngắn những cây
    thuộc họ Dó bầu gần như bị diệt chủng. Trước tình hình đó Hội Đồng Bộ Trưởng (Nay
    thuộc Chính Phủ) Đã ban hành Nghị Định số 18-HDBT ngày 17 tháng 1 năm 1992
    quy định danh mục thực vật rừng, động vật rừng quý hiếm và có chế độ bảo vệ, đã xếp
    cây Dó bầu vào danh mục nhóm 1A, tức là được bảo vệ nghiêm ngặt.
    Trước tình hình đó hiện nay ở nước ta đã và đang có rất nhiều các tổ chức, cơ
    quan, cá nhân trồng cây Dó bầu đại trà, nhằm mục đích cải thiện kinh tế, phủ xanh đất
    trống đồi trọc, góp phần xoá đói giảm nghèo v.v Tuy nhiên, phần lớn các dự án đó
    mới đang ở giai đoạn trồng và thử nghiệm gây tạo Trầm bằng các phương pháp khác
    nhau và các kết quả thu được đều chưa được khả quan lắm.
    Mặt khác nếu để cây Dó bầu mọc ngoài tự nhiên (ở rừng tự nhiên) thì khả năng
    cho Trầm hương của cây Dó bầu rất hạn chế (khoảng 10%). Chỉ một số cây vì lý do nào đó các tác nhân từ bên ngoài tác động đến cây Dó bầu như mưa, gió, sét đánh làm
    gẫy thân, cành chiến tranh vi sinh vật làm tổn thương, xâm nhiễm vào cây. Từ đó
    qua quá trình thời gian thì Trầm hương được hình thành dần dần theo thời gian.
    Vì những lý do kể trên đồng thời dưới sự phân công của bộ môn Công Nghệ
    Sinh Học chúng tôi đã thực hiện đề
    tài “Nghiên cứu gây tạo Trầm hương bằng phương pháp vi sinh và hoá học”.

    1.2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
    Xây dựng qui trình kỹ thuật gây tạo Trầm hương nhân tạo bằng phương pháp vi
    sinh và hoá học có hiệu quả
    Tạo ra được Trầm hương hàng hoá, tức Trầm hương có chất lượng và có giá trị
    thương phẩm cao.
    Bước đầu dùng sắc ký khí GC/MS để xác định thành phần hoá học trong tinh
    dầu Trầm từ các mẫu Trầm có được từ quá trình gây tạo.
    Hoàn thiện quy trình công nghệ cũng như chế phẩm gây tạo Trầm hương để
    chuyển giao cho người trồng Dó bầu.

    1.3. Giới hạn của đề tài.
    Do quỹ thời gian và kinh phí còn hạn chế nên chúng tôi mới chỉ dừng lại ở việc
    nghiên cứu các vấn đề liên quan đến việc hình thành Trầm hương trên cây Dó bầu ở
    các nghiệm thức đã bố trí thí nghiệm. Ngoài ra chúng tôi nghiên cứu đánh giá kết qủa
    sản phẩm Trầm hương tạo được bằng cảm quan. Cũng như xác định thành phần hoá
    học thông qua chạy sắc ký khi kết hợp khối phổ GC/MS.

    PHẦN 2. TỔNG QUAN
    2.1. Tổng quan về cây Dó bầu
    Cây Dó bầu thuộc:
    Lớp (Class): Magnoliopsida
    Bộ (Order): Myrtales
    Họ (Family):Thymelaeaceae
    Giống Aquilaria có tất cả 24 loài (Species) khác nhau gồm:
    01. Aquilaria beccariana van Tiegh
    02. Aquilaria hirta Ridl
    03. Aquilaria microcarpa Baill
    04. Aquilaria cumingiana (Decne) Ridl
    05. Aquilaria filaria (Oken) Merr
    06. Aquilaria brachyantha (Merr.) Hall.f
    07. Aquilaria urdanetensis (Elmer) Hall.f
    08. Aquilaria citrinaecarpa (Elmer) Hall.f
    09. Aquilaria apiculata Elmer
    10. Aquilaria parvifolia (Quis.) Ding Hou
    11. Aquilaria rostrata Ridl
    12. Aquilaria crassna Pierre ex Lecomte
    13. Aquilaria banaense Pham-hoang-Ho
    14. Aquilaria khasiana H. Hallier
    15. Aquilaria subintegra Ding Hou
    16. Aquilaria grandiflora Bth
    17. Aquilaria secundana D.C
    18. Aquilaria moszkowskii Gilg
    19. Aquilaria tomentosa Gilg
    20. Aquilaria baillonii Pierre ex Lecomte
    21. Aquilaria sinensis Merr
    22. Aquilaria apiculata Merr
    23. Aquilaria acuminate (Merr.)Quis 24. Aquilaria yunnanensis S.C. Huang
    2.2. Công dụng và việc sử dụng Trầm hương
    Cây Dó bầu và sản phẩm chính của nó là Trầm hương đã có lịch
    sử từ lâu đời, và là một trong những sản vật luôn góp mặt trong cuộc
    sống tinh thần của người dân Việt Nam ta nói riêng và trên thế giới nói
    chung. Đó là việc Trầm hương thường có mặt trong các tác phẩm văn
    học, trong tín ngưỡng tôn giáo, trong các đền đài.v.v (theo Nguyễn
    Hiền và Võ Văn Chi -1991). Theo tài liệu khảo cổ học thì từ thời cổ đại
    xa xưa ông cha ta đã biết khai thác và sử dụng Trầm hương. Đời nhà
    Hán (206-220 TCN) nhiều nước trên thế giới đã đến Giao Châu để
    mua bán mà chủ yếu mua các sản vật từ Phương Nam đặc biệt quý
    hiếm như sừng Tê Giác, Ngà Voi, Trầm hương . Từ thế kỷ thứ X, thời vua Đinh Tiên
    Hoàng đã biết dùng Trầm hương để đóng những chiếc rương đựng gia bảo như Long
    Bào của Hoàng Đế.
    Trầm hương còn là sản vật dùng để cống nộp hoặc là tặng phẩm của vua chúa ở
    nhiều nước trên thế giới. Như là ở các nước Đông Nam Á, Ấn Độ, IRan, IRắc, Hy
    Lạp.v.v Những người theo đạo Phật, đạo Hồi, đạo Ky Tô đều tôn sùng Trầm
    hương trong những buổi cúng lễ. Hầu hết các tín đồ theo các đạo kể trên đều coi Trầm
    hương là vật linh thiêng, giao lưu truyền cảm giữa
    người sống và cõi tâm linh.
    Trầm hương đã được đề cao đặc biệt trong văn
    học Phương Đông cũng như trong nền văn học Việt
    Nam, cả văn học dân gian cũng như văn học chính
    thống. Như Nguyễn Du đã nói đến Trầm hương trong
    Truyện Kiều, Nguyễn Gia Thiều trong “Cung Oán
    Ngâm Khúc” v.v và cả trong tục ngữ ca dao.
    Ngày nay cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật con người không ngừng
    tôn vinh giá trị của Trầm hương. Đó là việc chiết xuất tinh dầu Trầm để làm nước hoa
    đã và đang được rất nhiều phụ nữ trên thế giới ưa chuộng. Việc chiết xuất các chất thứ
    cấp có trong tinh dầu Trầm để làm dược liệu.v.v Chính vì những vấn đề đó mà Trầm
    hương ngày càng có giá trị kinh tế cao.

    ghiệ m H2.4 Vườn cây Dó bầu
    2.3. Đặc điểm thực vật của cây Dó bầu.
    Dó bầu còn có các tên gọi khác nhau dựa vào những sản phẩm của chúng như
    cây Tok, cây Trầm, cây Trầm hương, cây Kỳ nam.v.v Theo Nguyễn Hiền và Võ
    Văn Chi (1991) cây Dó bầu được chính thức đặt tên khoa học và công bố dựa vào
    những mẫu vật do nhà thực vật học người Pháp là Pierre thu nhập tại đảo Phú Quốc
    (Việt Nam) và núi Aral tỉnh Samrongtong (Cambodia) vào tháng 5 – 1870. Pierre đã
    dựa vào tên Cambodia là Krasna để đặt cho cây Dó bầu là Aquilaria crassna nhưng đó
    chỉ là tên trần chưa có bảng mô tả và việc công bố chưa được hợp thức hoá. Sau đó
    Henri Lecomte trong bộ sách Thực Vật Chí Đông Dương lần đầu tiên mô tả các loài
    thuộc chi Aquilaria ở Đông Dương và công bố chính thức trong thực vật học của Pháp
    năm 1914 và xếp chi này vào họ Trầm. Phạm Hoàng Hộ (1992) trong công trình gần
    đây nhất xác nhận ở Việt Nam, chi Aquilaria thuộc họ Trầm hương có ba loài được
    định danh là:
    Aquilaria crassna Pierre ex Lecomte: Dó bầu, Trầm ; ghi nhận ở Phú Khánh,
    Bảo Lộc và Phú Quốc.
    Aquilaria baillonii Pierre ex Lecomte Dó baillon; ghi nhận ở rừng dầy ẩm Bình
    Trị Thiên, Quảng Nam, Đà Nẵng.
    Aquilaria banaensae PhạmHoàng: Dó Bà Na; ghi nhận ở rừng dầy ẩm Quảng
    Nam, Đà Nẵng.
    Các tác giả khác như GS. Lê Văn Ký (1993), các
    tác giả trong quyển “Cây Gỗ Rừng Việt Nam Tập
    IV” (1991); “Phân Loại Thực Vật” (Nxb Giáo dục,
    1972” và “Danh Mục Thực Vật Tây Nguyên” của
    đoàn điều tra thực vật (1984) đã ghi nhận cây Dó
    bầu với tên khoa học Aquilaria agallocha Roxb.
    Tuy nhiên, theo Vũ Văn Chiên (1976) trong “Tóm
    tắt đặc điểm họ cây thuốc” thì Aquilaria agallocha
    Roxb chỉ có ở Ấn Độ không có ở Việt Nam, không ghi nhận trong quyển “Thực vật chí
    Đông Dương” của Henri Lecomte. Một số công trình nghiên cứu khác như: “Định
    danh Dược thảo và Dược liệu Đông Y” của đoàn Dược sĩ Việt Nam (xuất bản ở Sài
    Gòn, 1973” và “Những cây Thuốc vị thuốc Việt Nam” (Nxb. Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội 1981) lại cho rằng Aquilaria agallocha Roxb là đồng danh của Aquilaria crassna
    Pierre. Ngoài ra những đặc điểm quan trọng về thực vật học của cây Dó bầu được
    nhiều tác giả ghi nhận như sau:
    Dó bầu là một loại cây gỗ lớn, tán thưa, cao khoảng 20m (cũng có thể đạt 40m).
    Đường kính ngang ngực 40-50cm (có thể đạt 80cm). Vỏ mỏng khoảng 2- 4mm, trong
    Vỏ có nhiều sợi dài, bền. Lá đơn, mọc cách, hình ngọn giáo, dài 6-15cm, rộng 2-3cm,
    đầu mũi nhọn. Hoa tự hình tán, mầu trắng. Quả mang hình trứng ngược, dài 3-5cm,
    rộng 2-3cm, có nhiều lông. Khi chín khai thành hai mảnh, và có từ một đến hai hạt
    mầu đen. Trái chín vào khoảng tháng 7- 8. Gỗ có mầu trắng hoặc vàng nhạt, không
    phân biệt rác lõi, gỗ nhẹ, mềm. Trong gỗ có cấu tạo đặc biệt là Libe xen gỗ (Đây là
    một trong những hiện tượng đặc biệt để nghiên cứu sự tạo Trầm).

    2.4. Đặc điểm sinh thái.
    Trong những năm gần đây, một số tác giả đã đề cập rải rác trong nhiều báo cáo
    nghiên cứu các vấn đề sinh thái và phân bố của cây Dó bầu (Vũ Văn Cầu và Vũ Văn
    Dũng ,1987). GS. Lê Văn Ký cho biết Dó bầu phân bố ở nhiều nơi trên lãnh thổ Việt
    Nam, và nhiều nước Châu Á nhiệt đới khác như Lào, Cambodia, Ấn Độ v.v Ở Việt
    Nam cây Dó bầu mọc rải rác ở nhiều tỉnh từ Bắc đến Nam như: Lạng Sơn, Quảng
    Ninh, Hà Tuyên, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Huế, Quảng
    Nam, Đà Nẵng. và hầu hết các tỉnh phía Nam. Nhưng tập trung nhiều nhất là ở các tỉnh
    Duyên hải và huyện đảo Phú Quốc.
    Nhìn chung, Dó bầu là loài thực vật ưa sáng, mọc rải rác trong các khu rừng
    nhiệt đới, mọc ở độ cao từ 50-1200m. Nơi cao nhất được tìm thấy ở núi ChuYang Sinh
    thuộc tỉnh Daklak của Việt Nam. Thường thì cây Dó bầu mọc riêng lẻ nhưng cũng có
    khi tìm thấy được một nhóm 5-6 cây mọc gần nhau. Theo Lê Mộng Châu và ctv
    H2.5 Quả Dó bầu còn non
    H2.6 Quả Dò bầu khi chín (1995), Dó bầu là loại cây mọc nhanh, lượng tăng trưởng được ghi nhận là 1-
    1.2m/năm về chiều cao, và 1.2-1.5cm/năm về đường kính. Cây được 8 tuổi trở lên có
    khả năng cho hoa kết quả. Dưới tán rừng thứ sinh cây Dó bầu tái sinh kém. Thường thì
    gặp cây Dó bầu tái sinh ở những khoảng trống trong rừng như bìa rừng ven những con
    đường mòn Ngoài ra thì Dó bầu cũng có khả năng tái sinh bằng chồi rất tốt. Việc
    nhân giống bằng phương pháp chiết cành, ghép cành, có tác động của thuốc kích thích
    cũng được thực hiện, nhưng cho đến nay vẫn chưa có công trình nào được công bố.

    2.5. Tình hình khai thác Trầm hương trong thiên nhiên.
    Trầm hương, Đinh hương, Nhục quế, Dầu thơm, Thuốc xức xuất hiện rất
    sớm trên thị trường cùng với muối ăn. Trong đó Trầm hương được xem là mặt hàng
    quí giá nhất do có những công dụng đặc biệt trong đời sống cũng như trong các tín
    ngưỡng tôn giáo.
    Ở Việt Nam, việc khai thác và sử dụng Trầm hương đã có từ rất lâu đời. Vào
    thời Bắc thuộc, nhà nước phong kiến phương Bắc hàng năm buộc nhân dân ta phải
    cống nạp các sản vật quí giá như Ngà Voi, Sừng Tê Giác, Ngọc Trai, Yến Sào
    Trong đó có cả Trầm hương.
    Dưới triều nhà Nguyễn, việc khai thác Trầm hương được nhà nước quản lý hết
    sức chặt chẽ. Đối với những vùng có nguồn Trầm hương để khai thác, triều đình cắt
    đặt các đội canh tuần và buộc những người đi điệu vào rừng lấy Trầm về cống nạp.
    Vào thời Pháp thuộc, lệ bắt dân lấy Trầm nạp cho vua quan được bãi bỏ, nhưng
    bù vào đó chính quyền thực dân Pháp tăng cường kiểm soát việc chặt đốn cây Dó bầu
    để khai thác Trầm.
    Sau năm 1975, do trải qua mấy chục năm chiến tranh, các khu rừng gỗ quý bị
    bom đạn tàn phá nặng, nhiều cây Dó bầu bị bệnh, bị bom đạn hủy hoại lại sản sinh ra
    những loại Trầm kỳ rất tốt. Các địa phương có trữ lượng Trầm hương tương đối tập
    trung như Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Đắc Lắc, Gia
    Lai, Kontum và đảo Phú Quốc được chính phủ cho phép khai thác và xuất khẩu Trầm
    hương để thu hút ngoại tệ và đổi một số máy móc thiết bị mà địa phương đang cần.
    Những đội công nhân chuyên nghiệp được thành lập để khai thác Trầm hương, nhưng
    thực tế số lượng những đội khai thác lâm sản của nhà nước tại các địa phương lại quá ít ỏi so với nhu cầu. Trong thời kỳ này, sự khai thác Trầm hương phần lớn qua đường
    dây của thương buôn cá thể.
    Trầm hương của nhà nước thu mua, một phần được sử dụng để sản xuất dược
    liệu, phần khác thì xuất khẩu qua Singapore, Hồng Kông, Nhật Bản
    Đến cuối thập niên 1990, nguồn Trầm hương tự nhiên ở Việt Nam gần như cạn
    kiệt và để bảo vệ nguồn tài nguyên quốc gia, Chính phủ đã cấm hẳn việc khai thác,
    mua bán Trầm hương và xem đó là hàng quốc cấm.
    Trong tự nhiên, không phải bất kỳ cây Dó bầu nào cũng có Trầm và Kỳ. Thông
    thường chỉ có 1/10 những cây trưởng thành có đường kính thân trên 20cm là có khả
    năng tạo Trầm, đó là những cây bị bệnh sau một thời gian từ 10 đến 20 năm hoặc lâu
    hơn. Do đó, từ xưa đến nay, công việc tìm kiếm Trầm hương và Kỳ nam là một công
    việc nhiều khó khăn gian khổ. Những người đi tìm Trầm phải mất nhiều tháng trời
    luồn rừng lội suối vào tận rừng sâu núi thẳm để tìm Trầm. Đôi khi họ trở về tay không
    hoặc phải bỏ mạng ở nơi thâm sơn cùng cốc.
    Gần đây con người đã chủ động trồng cây Dó bầu để khai thác Trầm hương và
    chưng cất tinh dầu Trầm. Nhiều công trình khoa học đã nghiên cứu thành công các
    phương pháp cấy tạo Trầm trên thân gỗ của cây Dó bầu từ đầu những năm 80 của thế
    kỷ trước và đã mở ra một hướng đi mới cho thị trường Trầm hương trong nước cũng
    như trên thế giới.

    2.6. Trầm và sự tạo Trầm.
    Mặc dầu số lượng cá thể các loài Aquilaria spp, cũng như nguồn cung cấp đã bị
    cạn kiệt, nhưng nhu cầu về Trầm hương trong nền thương mại thế giới lại gia tăng
    đáng kể. Hiện nay các nước tiêu thụ Trầm hương mạnh là Trung Cận Đông và Châu Á,
    và ngay cả ở Mỹ và châu Âu (TRP, 1997).
    Theo Vũ Văn Cần và Vũ Văn Dũng (1978) có thể phân loại nguồn gốc hai loại
    Trầm là Trầm sinh (Trầm lấy từ cây sống) và Trầm rục (Trầm lấy từ cây đốn hay cây
    chết đổ lâu ngày). Trầm sinh từ cây còn sống thường có mầu sáng. Ngược lại Trầm rục
    thì thường có mầu cánh dán, hay đen xỉ. Thường người ta lấy Trầm rục từ gốc hoặc rễ.
    Giá Trầm sinh thường cao hơn Trầm rục từ 2-3 lần và trên mỗi cây có Trầm có thể thu
    hoạch được từ 5-10kg Trầm. Ngoài ra phần gỗ xung quanh khối Trầm kỳ cũng bị biến
    đổi ít nhiều với sự xuất hiện rải rác các chỉ Trầm xen kẽ với sớ gỗ, thường gọi là Tok
    trong tiếng Khmer. Tok khi cháy cho mùi hương thơm và được dùng làm Nhang
    Trầm.Theo Phillips (1997), các dạng Trầm và sản phẩm của Trầm được ghi nhận trên
    thị trường là: Trầm mảnh, Trầm bóng, Trầm vụn và bột Trầm, Trầm bánh, tinh dầu
    Trầm (Dùng làm hương liệu và dược liệu).
    Việc phân tích Trầm và tinh dầu Trầm đã được Erhartdt, Lê Công Thuân và
    Hopwood (1997) thực hiện bằng phương pháp sắc ký khí kết hợp với khối phổ (Gas
    Chromatography/Mass Spectrometry). Ghi nhận có hai sesquiterpen tồn tại phổ biến
    trong gỗ cũng như trong tinh dầu, đó là (+) –Aromadendrene và –Selinene. Tuy nhiên,
    Selinene không xuất hiện trong mẫu gỗ Trầm chất lượng thấp. Một mặt khác, Guaiene,
    một Sesquiterpene khác có trong mẫu gỗ Trầm tự nhiên nhưng chỉ gặp trong mẫu tinh
    dầu, trong khi Guriunene, một đồng phân của Aromadendrene có nhiều trong các mẫu
    tinh dầu nhưng không thấy trong mẫu gỗ tự nhiên.
    Cho đến hiện nay có một vài công trình nghiên cứu về sự tạo
    Trầm, tuy nhiên, việc vận dụng các hiểu biết một cách chắc chắn về cơ chế tạo Trầm để sản xuất
    Trầm một cách bền vững vẫn đang là thử thách đối với các nhà khoa học. Lý
    do là cho đến nay, chưa có thực nghiệm hoàn chỉnh nào, mặc dù có rải rác vài công
    trình đã được tiến hành trên những cây Dó bầu còn non trồng trong môi trường được
    kiểm soát. Theo Phạm Hoàng Hộ (1985) Dó bầu có Trầm là cây Dó bầu bị bệnh. Nguồn gốc của bệnh đó chỉ mới được biết trong những năm gần đây. Khảo sát của
    Julaluddin (1977) cho rằng vùng Tok Trầm chứa một loại nấm được xác định là
    Cryptosphaeria mangifera. Ông đã xác định bằng cách cho những cây Dó bầu lành
    mạnh nhiễm nấm. Sau một thời gian, vùng bị nhiễm trở nên sẫm màu và trở thành Tok
    rõ rệt và khi đốt cũng toả mùi Trầm rõ rệt. Tuy nhiên đó chỉ là những tín hiệu bước
    đầu của sự hình thành Trầm. Việc nghiên cứu này còn quá ngắn để đi đến giai đoạn
    Trầm kỳ.
    Trầm có thể xuất hiện trên cây Dó bầu đã to hay còn nhỏ. Trong thực tế, có
    nhiều cây Dó bầu đã to, với đường kính 50-60cm nhưng không có Trầm. Ngược lại, có
    những cây Dó bầu đường kính mới chỉ có 15cm đã có Trầm. Các thí nghiệm gần đây
    cho thấy có thể kích thích tạo Trầm ở những cây Dó bầu trồng ở 4-5 năm tuổi. Tuy
    nhiên, trên những cây Dó bầu to, già cỗi Trầm xuất hiện nhiều hơn. Theo kinh nghiệm
    dân gian, có thể phân biệt cây đã có Trầm qua một số đặc điểm hình thái của cây và
    điều kiện hoàn cảnh nơi mọc như sau:
    Cây đã lớn đường kính trên 20cm.
    Thân cành có u bướu, cây nhiều mắt, cây bị bệnh hoặc bị thương.
    Lá cằn cỗi, màu xanh vàng.
    Vỏ khó bóc hơn những cây bình thường.
    Gỗ màu vàng.
    Cây mọc trên đất xấu nhiều sỏi đá.
    Trong cây Trầm hương xuất hiện ở ba nơi: rễ, gốc, đoạn thân, cành ở độ cao
    trên 60cm so với mặt đất rất hiếm khi có Trầm hương. Phần nhiều Trầm hương nằm
    nhiều ở quanh gốc, nhất là ở rễ. Chính vì thế, khi tìm Trầm hương, rễ mọc tới đâu phải
    đào tới đó. Người tìm Trầm không sợ bị rắn rết cắn vì họ tin rằng khi có Trầm thì rắn
    rết đã bị đuổi đi hết. Ở Ba Rền (Bình Trị Thiên) đôi khi người ta chặt ngọn cành để
    cho Trầm hình thành thấp.
    Gần đây nhất, nhóm nghiên cứu Rừng Mưa Nhiệt Đới Châu Âu kết hợp với
    trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên và hai tỉnh Kiên Giang và An Giang đã tiến hành
    một chương trình nghiên cứu nhằm gây tạo Trầm hương trên cây Dó bầu trồng từ hạt ở
    Phú Quốc.
    Huỳnh Văn Mỹ (1997) cho biết ở Tiến Phước (Quảng Nam), nông dân đã tự
    nghiên cứu xử lý kỹ thuật để tạo Trầm trên cây Dó bầu từ 10 năm tuổi trở lên kết Trầm theo ý muốn. Đây là một trong những vần đề mà các nhà khoa học cần nghiên cứu,
    tổng kết, đánh giá và nhân rộng.

    2.7. Tình hình trồng và phát triển cây Dó bầu trong nước.
    Đã từ lâu chất lượng Trầm hương của Việt Nam nổi tiếng trên thế giới, đây là
    loại Trầm được hình thành từ thân gỗ của cây Dó bầu (Aquilaria Crassna Pierre ex
    Lecomte) vốn chỉ có ở Việt Nam và Campuchia. Trầm hương Việt Nam được thị
    trường thế giới ưa chuộng và mua với gía rất cao trong khi đó nguồn khai thác Trầm
    hương trong tự nhiên đã cạn kiệt.
    Kỹ thuật cấy tạo Trầm nhân tạo ngày nay đã trở nên phổ biến với chất lượng
    không thua kém Trầm trong tự nhiên nhưng với thời gian nhanh hơn (Cây Dó bầu chỉ
    sau trồng từ 6-7 năm là có thể cấy tạo Trầm và sau thời gian từ 24 – 36 tháng kể từ khi
    cấy hóa chất là khai thác Trầm).
    Mặt khác, điều kiện tự nhiên của Việt Nam rất thích hợp để cây Dó bầu sinh
    trưởng và phát triển.
    Những nguyên nhân trên đã làm động lực thúc đẩy cho sự phát triển vườn cây
    Dó bầu ở Việt Nam.
    Ngày nay nhiều nông dân ở Việt Nam đã làm giàu nhờ vào việc trồng và cấy
    tạo Trầm hương trên cây Dó bầu (Trung bình, lợi nhuận thu được từ 50 – 150
    triệu/ha/năm).
    Theo số liệu thống kê của “Hội Trầm hương Việt Nam“ tính đến cuối năm 2004
    có khoảng 22 tỉnh trong cả nước đã trồng cây Dó bầu với diện tích trên 7.000 hecta
    trong đó diện tích có thể khai thác Trầm hương vào khoảng 190 hecta.
    Ở phía Bắc, một số tỉnh như Thái Nguyên, Phú Thọ vừa bắt đầu trồng trong
    năm 2004 do đó diện tích chưa cao.
    Các tỉnh Miền Trung từ Hà Tỉnh cho đến Khánh Hòa đã trồng trên 3.240 hecta,
    trong đó nhiều nhất là Hà Tỉnh (840 hecta), Quảng Bình (740 hecta), kế đến là Quảng
    Nam (425 hecta), và còn lại các tỉnh khác.
    Tây Nguyên tổng diện tích trồng khoảng 1.700 hecta bao gồm các tỉnh Kon
    Tum (325 hecta), Gia Lai (225 hecta), Đắc Lắc (615 hecta), Đắc Nông (226 hecta) và
    Lâm Đồng (265hecta). Các tỉnh Miền Đông Nam Bộ trồng được khoảng 1.743 hecta bao gồm Đồng
    Nai (345 hecta), Tây Ninh (218 hecta), Bình Dương (230 hecta), và nhiều nhất là Bình
    Phước (950 hecta).
    Ở Đồng Bằng Sông Cửu Long gồm có 2 tỉnh An Giang và Kiên Giang (kể cả
    đảo Phú Quốc) với diện tích trồng khoảng 387 hecta.
    Theo ước tính, đến năm 2010 diện tích trồng Dó bầu trên cả nước vào khoảng
    30.000 hecta, trung bình hàng năm diện tích tăng từ 2.500 – 4.000 hecta.

    2.8 Các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước.
    2.8.1 Trong nước.
    Trước nhu cầu ngày càng cao trên thế giới về Trầm hương nguyên liệu, cộng
    với giá cả ngày một tăng, thiên nhiên ưu đãi.v.v Hiện nay có rất nhiều dự án của các
    tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước đầu tư vào trồng cây Dó bầu để tạo Trầm. Như
    ông Nguyễn Ngọc Toàn , chủ tich Hội đồng quản trị công ty FongSan đã đầu tư trồng
    60 hecta Dó bầu tại xã An Khương, huyện Bình Long, tỉnh Bình Phước. Đến nay đã
    được 5 năm tuổi. Hiện nay ông Toàn và ông Sơn đã và đang gây tạo Trầm hương trên
    những cây Dó bầu này và bước đầu cũng đã thu được thành công. Chính vì vậy mà
    công ty này đã nhân rộng mô hình này tại nhiều tỉnh thành trong cả nước như: Quảng
    Nam, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Phú Yên, Lâm Đồng, Gia Lai.vv (theo tài liệu của sở
    Lâm Nghiệm tỉnh Gia Lai).
    Ngoài ra ở nhiều tỉnh thành khác trên cả nước nhiều bà con nông dân cũng phát
    triển và trồng Dó bầu ngay tại những vùng đất của nhà mình. Theo kinh nghiệm dân
    gian họ tự truyền nhau và mày mò tìm cách tạo Trầm sao cho hiệu quả. Như cấy bột
    sắt vào cây, cấy mảnh bom, đạn, cho dầu vào các vết thương để dẫn dụ kiến. Khi kiến
    lên ăn dầu vô tình làm tổn thương cây. Qua quá trình thời gian cây sẽ tạo ra Trầm mắt
    kiến .
    Đề tài điều tra số liệu khai thác Trầm ngoài tự nhiên của 59 cây Dó bầu của
    Viện Khoa Học Lâm Việt Nam. Trong đó có 13 cây cho Trầm hương có khả năng xuất
    khẩu chiếm 21%, 21 cây có dấu hiệu hình thành Trầm hương ở các vị trí khác nhau
    trên cây chiếm 35.6% còn lại 25 cây không có Trầm hương.
    Đề tài gây tạo Trầm hương bằng tác động cơ giới của Kỹ sư Nguyễn Hồng Lam
    Trung Tâm Nghiên Cứu Lâm Đặc Sản. Đề tài đã thực hiện trên 54 cây Dó bầu ở độ tuổi từ 6 đến 18 tuổi. Kết quả đối với 27 cây chỉ tác động cơ giới làm tổn thương cây
    mà không gây tác động gì thêm. Và theo định kỳ 2 năm quan sát một lần. Đối với 27
    cây còn lại thì sau khi tác động cơ giới gây tổn thương cho cây, sau đó ta tiến hành
    phun dung dịch phòng bệnh Benlat 1%. Phun theo định kỳ 2 tháng một lần, và phun
    trong 3 lần. Kết quả cho thấy đối với 27 cây chỉ tác động cơ giới làm tổn thương mà
    không phun Benlat thì 2 năm đầu không thấy có dấu hiệu gì. 4 năm, 6 năm, 8 năm sau
    thấy có 2 cây tạo Trầm hương. Còn 27 cây sau khi gây chấn thương có sử dụng Benlat
    để phun thì không cho kết quả tạo Trầm hương. Vậy việc tạo Trầm có liên quan đến
    bệnh lý của cây.
    Đề tài nghiên cứu khả năng tạo Trầm bằng chế phẩm sinh học (Lt) (Viện Khoa
    Học Lâm Nghiệp Việt Nam. Trung tâm nghiên cứu Lâm đặc sản). Sau khi gây chấn
    thương bằng tác động cơ giới như đục khoan vào thân cây ở vị trí 0.8m, 1.2m, 1.5m so
    với mặt đất. Sau đó đưa chế phẩm sinh học vào vết thương. Đề tài tiến hành trên 3
    nhóm tuổi khác nhau của cây Dó bầu. Nhóm 1 từ 4-8 tuổi. Nhóm 2 từ 10-14 tuổi.
    Nhóm 3 từ 16 đến 20 tuổi. Ngoài ra trong phạm vi đề tài còn đánh giá sự tạo Trầm ở
    rừng trồng tập trung và phân tán.
    Kết quả cho thấy sự hình thành Trầm ở các nhóm lứa tuổi là như nhau. Sự tạo
    Trầm bằng chế phẩm sinh học không phụ thuộc vào độ tuổi. Tuy nhiên, với cây có độ
    tuổi cao hơn đường kính gốc lớn hơn thì cho sản lượng Trầm nhiều hơn.
    Từ năm 1996 đến năm 1998 GS.TS Trịnh Tam Kiệt (Đại Học Quốc Gia TP
    HCM) đã phối hợp với tổ chức rừng mưa nhiệt đới quốc tế và các sở Lâm nghiệp các
    tỉnh Kiên Giang, Lâm Đồng và Quảng Nam triển khai dự án gây tạo Trầm hương trên
    cây Dó bầu. Dự án đã sử dụng một số chế phẩm sinh hoc, hoá học để gây tạo Trầm
    hương trên cây Dó bầu trên cơ sở gây chấn thương cơ giới. Cho đến nay các tác giả
    nay vẫn chưa công bố kết quả đạt được.
    Từ năm 1996 đến nay, theo yêu cầu của Hội đồng khoa học Bộ Nông Nghiệp và
    Phát Triển Nông Thôn. Viện Khoa Học Lâm Nghiệp Việt Nam. Trung tâm nghiên cứu
    Lâm đặc sản thực hiện đề tài “Tiếp tục nghiên cứu kỹ thuật tạo Trầm hương trên cây
    Dó bầu”.

    2.8.2. Ngoài nước.
    Ở Ấn Độ TS. Shiva thì cho rằng kết quả hình thành Trầm hương trong tự nhiên
    có liên quan đến bệnh lý của cây. Nhưng nguồn gốc gây bệnh thì tác giả chưa có kết
    luận.
    Ở Malaysia sau khi tìm hiểu và nghiên cứu về vấn đề tạo Trầm hương ngoài tự
    nhiên thì tiến sĩ khoa học Julajudin đã đi đến kết luận. Quá trình hình thành Trầm
    ngoài tự nhiên có liên quan đến bệnh lý của cây. Nguồn gốc hình thành Trầm là do sự
    cộng sinh của loài nấm Criptophoerica Mangifera với thân gỗ mà thành. (1996)
    Năm 1989 tiến sĩ Naiyna Thongijem và các cộng sự (Thái Lan) nghiên cứu về
    vấn đề tạo Trầm cho rằng quá trình hình thành Trầm hương trên cây Dó bầu là kết quả
    cộng sinh của các loài nấm sau đây Cephalos Potrium, Fusarium, Botriodiplodia,
    Chactomium.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...