Tiến Sĩ Nghiên cứu đánh giá mức độ hài lòng của doanh nghiệp về chất lượng đào tạo nhân lực trình độ đại học

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 27/4/15.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    1

    MỞ ĐẦU

    1. Tính cấp thiết của đề tài
    Trong quá trình phát triển, đặc biệt trong thế giới đương đại, khi các nước đang
    chuyển dần từ nền kinh tế chủ yếu dựa vào tài nguyên và vốn, sang nền kinh tế dựa
    chủ yếu vào tri thức, nguồn nhân lực (NNL) ngày càng đóng vai trò quan trọng. Đây là
    nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội ở mỗi quốc gia.
    Đối với nước ta, Báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội lần
    thứ IX đã khẳng định: “Nguồn lực con người là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội,
    tăng trưởng nhanh và bền vững”. Các Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X và XI tiếp
    tục khẳng định quan điểm này và nhấn mạnh NNL, nhất là NNL chất lượng cao là một
    trong 3 khâu đột phá chiến lược (hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
    XHCN; đào tạo và phát triển NNL, xây dựng kết cấu hạ tầng), để nước ta rút ngắn
    được khoảng cách tụt hậu, cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 và
    tạo tiền đề vững chắc cho phát triển cao hơn ở giai đoạn sau, thực hiện thành công sự
    nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH-HĐH) đất nước.
    NNL chất lượng cao là bộ phận NNL có trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật
    cao, có kỹ năng lao động giỏi, có khả năng giải quyết được các công việc phức tạp. Họ
    cũng là những người có khả năng thích nghi nhanh với những thay đổi nhanh chóng
    của công nghệ sản xuất, của trình độ quản lý, có năng lực vận dụng sáng tạo những tri
    thức, kỹ năng được đào tạo vào quá trình lao động, sản xuất kinh doanh, nhằm đem lại
    năng suất, chất lượng và hiệu quả cao, đóng góp chủ yếu cho sự tăng trưởng của đất
    nước. Họ có thể là những công nhân kỹ thuật có tay nghề cao, cũng có thể là những
    người có trình độ từ cao đẳng, đại học (CĐ- ĐH) trở lên. Trong đội ngũ này, NNL có
    trình độ đại học (ĐH) trở lên thường chiếm tỷ trọng lớn hơn cả và luôn được coi là bộ
    phận tiên phong, kéo theo các bộ phận còn lại và đóng vai trò chủ đạo trong sự phát
    triển kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia.
    Đối với Việt Nam, vốn đi lên từ một nước nông nghiệp, hiện đang trong quá
    trình CNH-HĐH đất nước, đội ngũ nhân lực trình độ ĐH lại càng có vai trò đặc biệt
    quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã
    hội thời kỳ 2011-2020, được thông qua tại Đại hội Đảng lần thứ XI (năm 2011) cũng
    đã khẳng định việc đào tạo và phát triển bộ phận nhân lực này sẽ là yếu tố quyết định
    đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển
    đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, đảm bảo cho sự phát
    triển nhanh, hiệu quả và bền vững của đất nước.
    Theo số liệu mới nhất của Tổng cục Thống kê, lực lượng lao động của nước ta
    năm 2012 là 52,3 triệu người, chiếm gần 59% dân số. Tỷ lệ lao động có trình độ từ ĐH
    trở lên chỉ chiếm 6,4% trong lực lượng lao động. Đa phần bộ phận lao động này làm
    việc trong các doanh nghiệp (DN) và các đơn vị hành chính sự nghiệp (HCSN), phân
    bố chủ yếu trong các ngành dịch vụ và tập trung ở 2 thành phố lớn của cả nước là Hà
    Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Mặc dù trong những năm qua, số lượng và tỷ trọng lao
    động trình độ ĐH trong cơ cấu nhân lực nói chung của cả nước có tăng lên, nhưng so
    với nhiều nước trong khu vực, tỷ lệ này vẫn còn rất thấp. Số liệu của Ngân hàng Thế
    giới đã cho thấy tỷ lệ người có bằng ĐH trong độ tuổi từ 22 đến 65 ở Việt Nam (tại
    thời điểm 2008) chỉ cao hơn Campuchia, nhưng thấp hơn nhiều nước khác trong khu
    vực, kể cả Indonesia, Mông Cổ, Philippines, Thái Lan
    2

    Mặc dù sự thiếu hụt về số lượng lao động có trình độ ĐH trong nền kinh tế nước
    ta là đáng lo ngại, nhưng vấn đề mà người sử dụng lao động quan tâm hơn cả chính là
    chất lượng của đội ngũ này.
    Theo số liệu thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo về kết quả học tập của sinh
    viên các trường CĐ-ĐH năm học 2001-2002, thì có đến 90% sinh viên ra trường xếp
    loại từ trung bình trở lên. Chỉ có 10,5% xếp loại yếu, kém. Từ đó đến nay, chưa có
    thêm đánh giá nào về kết quả học tập của sinh viên trong toàn hệ thống. Tuy nhiên,
    theo đánh giá của từng trường ĐH riêng lẻ thì có thể thấy xu hướng chung là tỷ lệ sinh
    viên đạt kết quả xuất sắc tuy rất thấp, chỉ khoảng dưới 1%, nhưng tỷ lệ sinh viên kết
    quả khá, giỏi lại tăng lên, số xếp loại trung bình, yếu, kém giảm đi. Gần đây nhất, kết
    quả khảo sát của Dự án Giáo dục đại học 2 đối với sinh viên tốt nghiệp (SVTN) năm
    học 2010-2011 cũng cho thấy chỉ có 5,3% tốt nghiệp loại trung bình, còn lại chủ yếu là
    khá, giỏi. Như vậy, theo chuẩn đánh giá kết quả đầu ra của các trường ĐH, đại đa số
    các SVTN đều đạt yêu cầu về kiến thức, kỹ năng để có thể tham gia vào thị trường lao
    động, góp phần hình thành đội ngũ nhân lực trình độ ĐH, phục vụ cho sự phát triển
    kinh tế - xã hội của đất nước.
    Tuy nhiên, số liệu điều tra lao động và việc làm của Tổng cục Thống kê lại cho
    thấy một tình trạng đáng lo ngại. Số lao động thất nghiệp có trình độ ĐH trở lên năm
    2011 là 7,6% đã tăng lên là 10,1% năm 2012. Mặc dù tình hình việc làm của SVTN
    chịu ảnh hưởng nhiều từ suy thoái kinh tế, việc giải thể, phá sản, thu hẹp quy mô của
    nhiều DN đã làm giảm cơ hội tìm việc của SVTN, nhưng một vấn đề rất lớn được
    người sử dụng lao động đặt ra, đặc biệt là các DN, đó chính là việc SVTN thiếu các
    kiến thức, kỹ năng mà nhà tuyển dụng yêu cầu. Điều này có ảnh hưởng rất lớn tới năng
    suất lao động và năng lực cạnh tranh của Việt Nam. Trong giai đoạn 2001-2010, năng
    suất lao động của Việt Nam có tốc độ tăng bình quân hàng năm là 4,5%, nhưng vẫn
    còn ở mức khá thấp, chỉ hơn Campuchia và mới bằng 12% của Singapore, 23,3% của
    Malaysia, 37% của Thái Lan và 46,5 % của Trung Quốc. Theo Báo cáo Năng lực cạnh
    tranh toàn cầu 2013-2014 do Diễn đàn kinh tế thế giới WEF công bố, chỉ số năng lực
    cạnh tranh toàn cầu (The Global Competitiveness Index - GCI) của Việt Nam hiện mới
    chỉ đạt 4,18/7 điểm, xếp ở vị trí 70/148 nền kinh tế tham gia xếp hạng.
    Điều này chứng tỏ việc đánh giá kết quả đầu ra của SVTN chưa phản ánh đúng
    chất lượng đào tạo nhân lực trình độ ĐH. Đối với đào tạo đại học (ĐTĐH), sản phẩm
    đầu ra là đội ngũ nhân lực cung cấp cho thị trường lao động, nên nếu đánh giá chỉ dựa
    vào kết quả đầu ra không thôi mà chưa tính đến nhu cầu, yêu cầu của thị trường lao
    động thì sẽ là một thiếu sót lớn vì không phải những SVTN khá, giỏi hoặc có kết quả
    học tập tương đối tốt thì tất cả sẽ đáp ứng được yêu cầu của người sử dụng lao động và
    làm họ hài lòng. Như vậy, cách đánh giá đầu ra của các trường cũng chưa hoàn toàn
    trùng khớp với những mong muốn của người sử dụng lao động, trong đó có các DN.
    Tất cả những điều này đã đặt ra sự cần thiết phải có những nghiên cứu đầy đủ và
    toàn diện về chất lượng đào tạo nhân lực nói chung và nhân lực trình độ ĐH nói riêng.
    Việc nghiên cứu vấn đề này cả về lý luận lẫn thực tiễn sẽ cho phép tìm hiểu xem chất
    lượng đào tạo nhân lực trình độ ĐH ở nước ta hiện nay còn chưa đáp ứng yêu cầu của
    các DN sử dụng lao động ở mức độ nào, ở những kỹ năng nào, có làm cho DN hài
    lòng khi sử dụng lao động hay không. Nguyên nhân của tình trạng này là ở đâu và từ
    đó đề ra các giải pháp để nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực, đáp ứng nhu cầu của
    người sử dụng lao động, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
    3

    Xuất phát từ cách nhìn nhận và tầm quan trọng của vấn đề này mà người nghiên
    cứu đã lựa chọn việc nghiên cứu đánh giá sự hài lòng của DN sử dụng lao động về
    chất lượng đào tạo nhân lực trình độ ĐH ở Việt Nam làm để tài của luận án.
    2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
    Liên quan đến vấn đề chất lượng đào tạo nhân lực trình độ ĐH và sự hài lòng của
    người sử dụng lao động, các nghiên cứu trên thế giới và trong nước tập trung vào 2
    vấn đề lớn là: (1) chất lượng đào tạo đại học và (2) chất lượng nguồn nhân lực và các
    năng lực, kỹ năng cần có của người lao động để đáp ứng yêu cầu của công việc.
    Các nghiên cứu về chất lượng ĐTĐH chủ yếu nhìn nhận vấn đề chất lượng dưới
    góc độ của các cơ sở đào tạo và cơ quan quản lý và đánh giá cả đầu vào, đầu ra và quá
    trình đào tạo. Một số các nghiên cứu khác quan tâm nhiều hơn đến chất lượng của quá
    trình đào tạo thông qua sự đánh giá của người học.
    Còn các nghiên cứu về chất lượng nguồn nhân lực và các năng lực cần có của
    người lao động thì nhìn nhận vấn đề chất lượng dưới góc độ của người sử dụng lao
    động, mà chủ yếu là các DN. Họ đưa ra các đòi hỏi, yêu cầu về kiến thức, kỹ năng mà
    người lao động phải đạt được trong quá trình làm việc.
    Dưới đây là một số nghiên cứu chủ yếu có liên quan đến đề tài của luận án:
    2.1. Các nghiên cứu về chất lượng đào tạo đại học
     Dưới góc độ của các cơ sở đào tạo
    Trên thế giới đã có rất nhiều nghiên cứu đi theo hướng này. Trước hết phải kể
    đến các nghiên cứu của Harvey, L. & Green, D., (1993), Bogue E. & Saunders D.,
    (1992), Lewis R. & Smith D. (1994) và sau đó là của các tác giả khác như Granam A.
    & Stella Antony (2003), Mohammad S. Owlia & Elaine M. Aspinwall (2006), Vấn
    đề được các tác giả trên đặc biệt quan tâm là các chuẩn chất lượng (standards), vai trò
    của chương trình đào tạo, chất lượng của giảng viên, chất lượng nghiên cứu trong
    trường ĐH.
    Gắn với đánh giá chất lượng là kiểm định chất lượng (Quality Accreditation),
    kiểm toán chất lượng (Quality Audit) và công nhận chất lượng (Recognition of
    Quality). Các nội dung này được đề cập đến khá chi tiết trong các nghiên cứu của
    Barnelle, R. (1994), Srikanthan G., Dalrymple J. (2003).
    Gần đây, một số các tác giả đã mở rộng các nội dung nghiên cứu truyền thống
    trong lĩnh vực này sang các vấn đề mới hơn như nghiên cứu ảnh hưởng của nhân tố
    “mềm” tới việc đánh giá và nâng cao chất lượng ĐTĐH (Muhammad Mad Bin, Jegak
    U. & Juan José Tari, 2008).
    Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về đánh giá chất lượng đào tạo nói
    chung và chất lượng ĐTĐH nói riêng cũng tương đối phong phú. Có thể liệt kê ra đây
    một số công trình tiêu biểu dưới dạng sách chuyên khảo và tham khảo của các tác giả
    Nguyễn Đức Chính (chủ biên) (2002), Phạm Thành Nghị (2000), Trần Khánh Đức
    (2004), GS.TS. Nguyễn Hữu Châu (chủ biên) (2008), GS.TS. Nguyễn Thị Mỹ Lộc,
    GS.TS. Nguyễn Hữu Châu (đồng chủ biên) (2013). Các tác giả này đã đề cập đến
    nhiều nội dung liên quan đến chất lượng đào tạo, từ những khái niệm cơ bản về chất
    lượng đến mô hình, phương pháp đánh giá chất lượng trong ĐTĐH.
    Bên cạnh đó, không thể không kể tới công trình Đề tài cấp Nhà Nước KX-05-10
    do GS.TSKH Nguyễn Minh Đường làm chủ nhiệm với tên đề tài là “Đào tạo nhân lực
    đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường, toàn
    cầu hóa và hội nhập quốc tế”. Kết quả nghiên cứu của đề tài đã được phản ánh trong
    sách chuyên khảo do các tác giả Nguyễn Minh Đường và Phan Văn Kha đồng chủ
    4

    biên (2005). Ngoài ra, liên quan đến đánh giá chất lượng ĐTĐH, còn có đề tài B2004-
    CTGD-05 do PGS.TSKH Bùi Mạnh Nhị, Trường Đại học Sư phạm TP.Hồ Chí Minh
    (2004) chủ trì, nghiên cứu về chất lượng quá trình đào tạo
    Một số vấn đề cụ thể khác trong đánh giá chất lượng ĐTĐH cũng được nhiều tác
    giả quan tâm nghiên cứu, như mối quan hệ giữa chất lượng và quy mô (Lâm Quang
    Thiệp, 2004), bộ tiêu chí đánh giá chất lượng trong giáo dục đại học (GDĐH) (Nguyễn
    Phương Nga, 2011), đánh giá chất lượng trong một số lĩnh vực cụ thể (Đặng Bá Lãm
    và Trần Khánh Đức, 2002), gắn việc đánh giá chất lượng với các giải pháp nâng cao
    chất lượng, gắn giáo dục-đào tạo với phát triển NNL (Vũ Văn Tảo, 2002).
    Nhìn chung, nội dung của các nghiên cứu này tập trung vào việc xây dựng các bộ
    tiêu chí đánh giá chất lượng của quá trình đào tạo, cũng như xem xét ảnh hưởng của
    các nhân tố như nội dung, chương trình, đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất, nguồn lực
    tài chính, chất lượng đầu vào của sinh viên, đến chất lượng của quá trình đào tạo và
    chất lượng kết quả đầu ra của SVTN.
     Dưới góc độ của người học
    Các nghiên cứu dưới góc độ này tập trung vào việc đánh giá chất lượng ĐTĐH
    dựa vào sự cảm nhận của sinh viên đang học và đã tốt nghiệp đối với các yếu tố hình
    thành nên chất lượng của quá trình đào tạo như chương trình giảng dạy, cơ sở vật chất,
    thư viện và các phương tiện nghe nhìn trong nhà trường, các hoạt động đào tạo và
    nghiên cứu khoa học, Có thể điểm qua một số nghiên cứu theo hướng này như:
    Ở nước ngoài: Chua Claire (2004) nghiên cứu đánh giá chất lượng quá trình
    ĐTĐH theo nhiều quan điểm khác nhau: sinh viên, phụ huynh, giảng viên và người sử
    dụng lao động; Ranjani Jain (2008) đánh giá chất lượng quá trình ĐTĐH trên mô hình
    chất lượng dịch vụ gồm hai thành phần là chất lượng chương trình (giáo trình, chất
    lượng đầu vào, trang thiết bị) và chất lượng cuộc sống (chương trình ngoài giờ học,
    dịch vụ hỗ trợ, môi trường tương tác trong trường học); Ahmadreza Shekarchizadeh,
    Amran Rasli, Huam Hon-Tat (2011) nghiên cứu đánh giá về nhận thức và mong đợi
    của các học viên quốc tế học sau đại học tại các trường ĐH ở Malaisia, .
    Ở trong nước, có một số các nghiên cứu liên quan đến vấn đề này. Có thể kể đến
    nghiên cứu đánh giá chất lượng ĐTĐH qua đánh giá của sinh viên trường ĐH An
    Giang (Nguyễn Thành Long, 2006), đánh giá mức độ hài lòng của sinh viên với chất
    lượng đào tạo tại trường ĐH Kinh tế, ĐH Đà Nẵng (Nguyễn Thị Trang, Lê Dân,
    2010), đánh giá chất lượng đào tạo từ góc độ cựu sinh viên của trường ĐH Bách khoa
    TP.Hồ Chí Minh (Nguyễn Thúy Quỳnh Loan, Nguyễn Thị Thanh Thoản, 2005), .
    Tóm lại, các nghiên cứu thuộc nhóm này mới chỉ đánh giá được một khía cạnh
    của chất lượng ĐTĐH là chất lượng quá trình đào tạo, chứ chưa quan tâm đến chất
    lượng đầu vào và đầu ra. Đối tượng được hỏi để đánh giá là chính là đối tượng trực
    tiếp thụ hưởng dịch vụ ĐTĐH, là người học.
    2.2. Các nghiên cứu về chất lượng nguồn nhân lực và các năng lực, kỹ
    năng cần có của người lao động
    Xuất phát điểm của các nghiên cứu thuộc nhóm này dựa trên quan hệ cung-cầu
    trên thị trường lao động, đào tạo phải gắn với sử dụng và chất lượng phải gắn với năng
    suất lao động và hiệu quả công việc. Người đưa ra đánh giá chỉ là người sử dụng lao
    động và mức độ hài lòng của họ là tiêu chí cơ bản để đánh giá chất lượng của sản
    phẩm đào tạo (SVTN). Mặc dù vẫn chưa nhận được sự nhất trí hoàn toàn của giới ĐH,
    nhưng quan điểm này đang ngày càng nhận được sự ủng hộ rộng rãi, đặc biệt là giới
    chủ DN ở các nước. Như vậy, việc đánh giá chất lượng NNL trình độ ĐH về thực chất
    5

    là việc đánh giá các kiến thức, kỹ năng (mà đặc biệt là kỹ năng) mà người sử dụng lao
    động cần ở SVTN.
    Xét về các nghiên cứu trên thế giới, vấn đề này đã được Ngân hàng Thế giới
    (World Bank – WB) nghiên cứu từ những năm 70 và hiện nay vẫn đang tiến hành ở
    nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Các kết quả khảo sát, nghiên cứu này
    đã được đăng tải trên trang web của WB (2013), trong đó WB đã được ra định nghĩa
    đơn giản về nhân lực và chất lượng: “Nhân lực = Kỹ năng” và “Chất lượng = Kỹ
    năng”.
    Một nghiên cứu tổng quan khác về chất lượng nhân lực trình độ sau trung học
    (Tertiary Education – bao gồm trình độ CĐ-ĐH và các trình độ đào tạo ngắn hạn khác)
    và mức độ đáp ứng với yêu cầu công việc mà người sử dụng lao động (chủ yếu là giới
    công nghiệp) đã được tiến hành bởi Ban Chính sách đào tạo về giáo dục thuộc Tổ chức
    các nước trong khối OECD (Stephen Machin & Sandra McNally, 2007). Kết luận
    được rút ra là để đáp ứng yêu cầu của giới công nghiệp, làm cân bằng được thị trường
    lao động, giảm bớt tỷ lệ thất nghiệp thì hệ thống giáo dục và đào tạo nhân lực của các
    nước cần phải có sự cải tổ theo hướng chú trọng hơn đến đào tạo kỹ năng và thay đổi
    cơ cấu ngành nghề đào tạo.
    Về yêu cầu đối với các kỹ năng cụ thể mà người sử dụng lao động cần ở SVTN,
    ý kiến của các tổ chức và các chuyên gia rất đa dạng. Harvey, L. & Green, D. (1994)
    cho rằng người lao động nói chung và SVTN nói riêng cần 5 nhóm kỹ năng. Còn
    Murray S. Và Robinson H. (2001) lại chỉ chia các kỹ năng cần thiết để SVTN có thể
    làm việc được theo yêu cầu của giới chủ ra thành 3 nhóm. Tương tự như vậy, các tác
    giả khác như Louw L., et al (2001), Nabi G. & Bagley D. (1999), Neelankavil J.P.
    (1994) cũng đã tiến hành nghiên cứu đánh giá chất lượng NNL dựa trên cơ sở chi tiết
    hóa các kiến thức, kỹ năng (hay còn gọi chung là năng lực –competencies) mà sinh
    viên cần phải có để đáp ứng được sự kỳ vọng của người sử dụng lao động.
    Một số cơ quan, tổ chức ở một số nước như Bộ Lao động Mỹ và Hiệp hội Đào
    tạo và Phát triển Mỹ, Bộ Giáo dục, đào tạo và thanh niên Úc, Cục Phát triển lao động
    của Singapo, . cũng như nhiều trường ĐH trên thế giới đã xây dựng các bộ tiêu chí
    đánh giá chất lượng ĐTĐH đáp ứng yêu cầu của người sử dụng lao động. Các bộ tiêu
    chí do các Hiệp hội nghề nghiệp đưa ra thường ngắn gọn (từ 6 đến 13 tiêu chí), có thể
    áp dụng để đánh giá không chỉ với đội ngũ nhân lực trình độ ĐH mà cả với người lao
    động ở các trình độ khác nữa và thường được gọi là các tiêu chí chung hoặc các” năng
    lực then chốt” (key-competency).
    Chẳng hạn như ở Úc, Bộ Giáo dục, đào tạo và thanh niên Úc (Departement of
    Education, Training and Youth Affairs – DETYA, 2000) đã công bố 11 yêu cầu và kỹ
    năng mà nhà tuyển dụng mong muốn ở SVTN ĐH. Ở Mỹ, Bộ Lao động Mỹ cùng với
    Hiệp hội Đào tạo và Phát triển Mỹ (The American Society of Training and
    Development) đã đưa ra Bộ chỉ số gồm 13 kỹ năng cơ bản trong công việc của người
    lao động (Nguyễn Bá Ngọc, 2013). Ở Nhật Bản, các DN đã đưa ra bộ tiêu chí đánh giá
    chỉ gồm 6 kỹ năng (Ngô Thị Thanh Tùng, 2013). Ở Singapo, Cục Phát triển lao động
    (Workforce Development Agency) đã thiết lập được hệ thống các kỹ năng hành nghề
    (Singapore Employability Skills System) với 10 nhóm kỹ năng (Nguyễn Bá Ngọc,
    2013).
    Dựa trên các bộ tiêu chí chung này, các trường ĐH trên thế giới đã cụ thể hóa
    thành các tiêu chí chi tiết hơn để khảo sát mức độ hài lòng của nhà tuyển dụng với
    SVTN trường mình (Employer Satisfaction Survey-ESS). Chẳng hạn như trường ĐH
    6

    Texas–Pan America, Mỹ (University of Texas-Pan America) đã sử dụng 34 tiêu chí
    đánh giá, trường ĐH Bắc Dakota, Mỹ (University of North Dakota) đã đưa ra để kháo
    sát 37 tiêu chí, trường ĐH Nam Úc (University of South Australia) đã đưa ra 24 tiêu
    chí,
    Một vấn đề khác được Baruch Y. và Leeming A. (1996) đặt ra và được nhiều nhà
    nghiên cứu cũng như chính các trường ĐH và người sử dụng lao động quan tâm là làm
    thế nào để trang bị cho sinh viên một cách tốt hơn các kiến thức, kỹ năng mà thì
    trường lao động đang đòi hỏi. Trong các nghiên cứu của Elzkowitz H. (2002), Garlick
    (2000), Holland (2001), Gunasekara (2004), Nair C.S. & Mertora P. (2009) và gần đây
    nhất là của Mahsood S. & Chericheri S. (2013), nhiều giải pháp đã được đề ra nhằm
    nâng cao chất lượng ĐTĐH và đáp ứng sự đòi hỏi của người sử dụng lao động. Trong
    số các giải pháp đó, việc tăng cường hợp tác giữa trường ĐH với DN được cho là một
    trong các giải pháp quan trọng nhất (Elzkowitz, 2004). WB (2012) cũng đưa ra kết
    luận tương tự khi khảo sát mức độ đáp ứng các kỹ năng của SVTN ĐH ở một số nước
    trong khu vực Đông Á so với yêu cầu của các nhà tuyển dụng.
    Xét về các nghiên cứu liên quan đến vấn đề này ở Việt Nam, có thể chia thành
    2 nhóm: nhóm nghiên cứu của các tổ chức quốc tế và học giả nước ngoài về Việt Nam
    và nhóm các nghiên cứu của các học giả Việt Nam.
    Các nghiên cứu của các Tổ chức quốc tế, các học giả nước ngoài về chất lượng
    NNL của Việt Nam nói chung tập trung nhiều vào đội ngũ nhân lực có trình độ cao và
    ý kiến của các DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Điển hình là các nghiên cứu, khảo
    sát của WB (2008)
    được trình bày trong Báo cáo: “Việt Nam: Giáo dục đại học và Kỹ
    năng cho tăng trưởng”. Gần đây nhất, WB (2013) cho biết đang tiến hành dự án khảo
    sát đo lường kỹ năng của đội ngũ nhân lực Việt Nam (và một số nước khác) dưới góc
    độ của người sử dụng lao động với tên gọi Kỹ năng hướng đến Việc làm và Năng suất
    (Skills Toward Employement and Productivity – STEP). Các Báo cáo của Tổ chức
    Xúc tiến thương mại Nhật Bản (Japan External Trade Organisation - JETRO, 2008)
    về Kết quả khảo sát các công ty chế tạo Nhật Bản tại Việt Nam, của Cơ quan Hợp tác
    Quốc tế Nhật Bản (JICA, 2010) về chất lượng đào tạo kỹ thuật và dạy nghề tại Hà Nội
    và các tỉnh phụ cận, của Hiệp hội DN Úc tại Việt Nam (Auscham, 2012), đều đưa ra
    nhận định về sự thiếu hụt một cách trầm trọng NNL có trình độ và kỹ năng cao ở Việt
    Nam. Nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp là do chất lượng đào tạo ở các trường CĐ-ĐH
    ở Việt Nam hiện nay còn rất thấp. Hiện đang tồn tại một khoảng cách rất lớn giữa
    những cái mà sinh viên được đào tạo trong nhà trường với những cái mà thực tế DN
    đòi hỏi. Đây là một trở ngại lớn với các DN, đặc biệt là các DN FDI.
    Điều này cũng phù hợp với nhận định của 2 học giả Thomas J. Vallely & Ben
    Wilkinson (2008) (thuộc trường Havard Kennedy School) khi nghiên cứu về giáo dục
    đại học (GDĐH) của Việt Nam, cũng như của Đoàn khảo sát thực địa (thuộc Viện Hàn
    lâm Quốc gia Hoa Kỳ) về GDĐH Việt Nam trong một số ngành. Trong các báo cáo
    trên, có 3 vấn đề về đánh giá chất lượng nổi bật. Thứ nhất là các chuẩn mực, tiêu chí
    về đánh giá chất lượng ở các trường ĐH của Việt Nam còn thấp hơn nhiều so với
    chuẩn mực thế giới. Thứ hai là các tổ chức đảm nhận vai trò đánh giá chất lượng
    GDĐH phải làm việc độc lập, tương tự như các kiểm toán viên bên ngoài để tránh tình
    trạng không khách quan trong đánh giá, kiểm định. Thứ ba là cần tăng cường vai trò
    của các DN và hiệp hội nghề nghiệp trong đánh giá chất lượng ĐTĐH và thúc đẩy liên
    kết trường đại học-doanh nghiệp (ĐH-DN), coi đó như một giải pháp quan trọng để
    7

    nâng cao chất lượng và giải quyết bài toán cung-cầu nhân lực, đáp ứng nhu cầu của thị
    trường lao động.
    Một nghiên cứu khảo sát, mặc dù không liên quan trực tiếp đến đối tượng là
    SVTN ĐH, nhưng lại là một trong những nghiên cứu đầu tiên trên phạm vi tương đối
    lớn ở Việt Nam, cho phép có cái nhìn ban đầu về chất lượng nhân lực ở Việt Nam. Đó
    là khảo sát của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội phối hợp với Ngân hàng Phát
    triển châu Á (ADB) tiến hành từ năm 2002 (dẫn từ World Bank, 2008). Đối tượng
    khảo sát là SVTN cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề. Kết quả cho thấy
    có chênh lệch tương đối lớn giữa mong muốn của DN với thực tế mà người lao động
    thể hiện và phản ánh sự thiếu hụt trong việc đào tạo kỹ năng thực hành và ý thức tuân
    thủ kỷ luật của người lao động Việt Nam.
    Nhận thức được tầm quan trọng của chất lượng NNL với sự phát triển kinh tế -
    xã hội của đất nước, cũng có một số các đề tài cấp Bộ, cấp Nhà nước tập trung nghiên
    cứu vấn đề này. Chẳng hạn như:
    - Đề tài cấp Bộ B2004-CTGD-09 của trường Đại học kinh tế quốc dân do PGS.TS.
    Nguyễn Văn Nam chủ trì (2005). Các DN được khảo sát đã đánh giá chất lượng
    của lao động được đào tạo ở trình độ ĐH thuộc 3 khối: kinh tế, kỹ thuật và các khối
    khác, ở 4 mức độ: rất tốt, tốt, bình thường, hơi yếu. Kết quả khảo sát cho thấy đánh
    giá chung về chất lượng lao động ở mức “tốt” và “rất tốt” ở cả 3 khối đều vượt quá
    50% số ý kiến đánh giá.
    - Đề tài B2007-TĐ do GS.TS Nguyễn Lộc, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam
    (2009) chủ trì, nghiên cứu về phát triển NNL ở Việt Nam, trong đó tập trung chủ
    yếu vào đối tượng trình độ trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề.
    - Đề tài nghiên cứu thuộc Chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp Nhà
    nước KX.01.04/11-15 của Viện Khoa học Lao động và Xã hội do PGS.TS. Nguyễn
    Bá Ngọc chủ trì (2013), các tác giả đã đưa ra đánh giá chất lượng của 5 nhóm nhân
    lực chủ chốt (đội ngũ công chức, đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ, đội ngũ
    giảng viên các trường CĐ-ĐH, đội ngũ doanh nhân và đội ngũ công nhân kỹ thuật
    trình độ cao), dựa trên các chỉ tiêu tổng hợp. Kết quả đánh giá cho thấy chất lượng
    NNL nói chung và của lực lượng lao động chuyên môn kỹ thuật trình độ cao nói
    riêng, hiện đang còn rất thấp, dẫn đến năng suất lao động xã hội và sức cạnh tranh
    của nền kinh tế còn rất yếu trong quá trình hội nhập. Các tác giả cũng đưa ra 10 kỹ
    năng mềm được cho là căn bản và quan trọng hàng đầu đối với người lao độngViệt
    Nam trong thời đại ngày nay.
    Ngoài các đề tài cấp Bộ và cấp Nhà nước, từ năm 2005 đến nay, cũng đã có một
    số công trình nghiên cứu sâu về chất lượng nhân lực trình độ ĐH gắn với việc đánh giá
    mức độ hài lòng của người sử dụng lao động, được đăng tải trong các sách chuyên
    khảo và các tạp chí chuyên ngành. Trong số đó có nghiên cứu đề cập đến những vấn
    đề chung trong đánh giá dựa trên kinh nghiệm của Nhật Bản của tác giả Nguyễn Kim
    Dung (2005). Các nghiên cứu khác thường gắn với đối tượng được đánh giá là SVTN
    một ngành, một trường cụ thể hoặc đang làm việc trên một địa bàn nhất định. Chẳng
    hạn như các nghiên cứu của Nguyễn Quốc Nghi và các tác giả (2011), Phạm Thị Lan
    Hương và Trần Diệu Khải (2010), Trịnh Văn Sơn và và các tác giả (2013), Đinh Phi
    Hổ và Nguyễn Văn Hòa (2011), Quan Minh Nhựt và và các tác giả (2012), Phạm
    Trương Hoàng và Nguyễn Thị Xuân Thúy (2011). Trong các nghiên cứu trên, phạm vi
    khảo sát, các tiêu chí lựa chọn để đánh giá và kết quả thu được về mức độ hài lòng của
    người sử dụng lao động còn tương đối khác nhau. Đặc biệt, việc đánh giá vẫn thiên về
    8

    định tính. Các giải pháp nâng cao chất lượng và mức độ hài lòng của người sử dụng
    lao động ít được các tác giả đề cập đến.
    Liên quan đến đào tạo, sử dụng và đánh giá chất lượng nhân lực dưới các góc
    nhìn khác nhau, trong đó có góc nhìn từ phía người sử dụng lao động, còn có các công
    trình nghiên cứu được tổng hợp lại trong sách chuyên khảo của GS.TS. Phan Văn Kha
    (2007). Vấn đề mối quan hệ giữa đào tạo và sử dụng, giữa cơ sở đào tạo với cơ sở sử
    dụng lao động ở các cấp độ khác nhau và các giải pháp tăng cường mối quan hệ này
    cũng được tác giả đề cập đến một cách hệ thống và cụ thể.
    3. Mục đích nghiên cứu
    Nghiên cứu của luận án có mục đích làm rõ các vấn đề lý luận và thực tế liên
    quan đến sự hài lòng về chất lượng đào tạo nhân lực trình độ ĐH ở Việt Nam dưới góc
    độ của các DN sử dụng lao động. Việc đánh giá được lượng hóa một cách rõ ràng và
    cụ thể. Từ đó đề xuất các kiến nghị giúp các cơ sở đào tạo, các nhà hoạch định chính
    sách đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực trình độ ĐH ở
    Việt Nam đáp ứng nhu cầu của các DN sử dụng lao động.
    Để đạt được mục đích này, luận án hướng tới việc trả lời câu hỏi:
    - Sự khác biệt trong đánh giá chất lượng đào tạo nhân lực trình độ ĐH dưới góc
    độ của các cơ sở đào tạo và dưới góc độ các DN sử dụng lao động là gì?
    - Về phía các DN sử dụng lao động, chất lượng đào tạo nhân lực trình độ ĐH
    được đánh giá theo những tiêu chí nào và được đo lường như thế nào?
    - Mô hình nào là phù hợp để đánh giá sự hài lòng của DN sử dụng lao động về
    chất lượng đào tạo nhân lực trình độ ĐH?
    - Các DN ở Việt Nam hiện nay đang đánh giá chất lượng ở mức độ nào và có hài
    lòng về chất lượng đào tạo nhân lực trình độ ĐH hay không?
    - Sự hài lòng của DN sử dụng lao động về chất lượng đào tạo nhân lực trình độ
    ĐH phụ thuộc vào những nhân tố nào?
    - Sự khác biệt trong đánh giá sự hài lòng về chất lượng giữa các đối tượng DN và
    đối tượng SVTN?
    - Có thể đề xuất các khuyến nghị nào để nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực
    trình độ ĐH đáp ứng nhu cầu của DN trong điều kiện ở Việt Nam hiện nay?
    4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
    Đối tượng nghiên cứu trong đề tài của luận án chính là sự hài lòng của DN về
    chất lượng đào tạo nhân lực trình độ ĐH ở Việt Nam, hay nói cách khác, đây chính là
    chất lượng đào tạo nhân lực trình độ ĐH dưới góc độ của các DN sử dụng lao động.
    Phạm vi nghiên cứu của luận án khác với các nghiên cứu đã trình bày trong
    phần tổng quan ở chỗ:
    - Luận án không nghiên cứu về chất lượng ĐTĐH dưới góc độ của các cơ sở đào
    tạo hay của người học mà chỉ tập trung nghiên cứu dưới góc độ của người sử
    dụng lao động, mà cụ thể chỉ là các DN ở Việt Nam.
    - Luận án tập trung nghiên cứu đội ngũ nhân lực mới được đào tạo ra từ các cơ sở
    đào tạo và vào làm việc trong các DN. Tuy chất lượng đào tạo quyết định chất
    lượng của đội ngũ nhân lực, nhưng chất lượng của đội ngũ này còn được bồi
    dưỡng và phát triển theo năm tháng, cùng với chính sách phát triển nhân lực
    của DN. Vì vậy các nhân tố có liên quan đến việc sử dụng và phát triển nhân
    lực trong các DN không phải là đối tượng của nghiên cứu này.
    - Luận án không đi vào nghiên cứu chất lượng đào tạo của từng trường ĐH mà
    tiến hành nghiên cứu cho tổng thể chất lượng ĐTĐH nói chung ở Việt Nam.
    9

    - Việc đánh giá này được thực hiện đối với 2 khối ngành chủ yếu là Kỹ thuật –
    Công nghệ và Kinh tế - Quản lý. Đây là 2 khối ngành có số lượng đào tạo lớn,
    đa phần làm việc trong các DN. Các khối ngành khác không phải là đối tượng
    của nghiên cứu này.
    - Do giới hạn về thời gian, không gian và điều kiện nghiên cứu, luận án không đi
    vào phân biệt giữa các loại hình đào tạo (tập trung hay không tập trung) và loại
    hình cơ sở đào tạo (công lập, dân lập hay tư thục) mà chi tập trung vào sự khác
    biệt trong đánh giá giữa 2 khối ngành đào tạo nói trên mà thôi.
    Để nghiên cứu đối tượng này, luận án sẽ tiến hành khảo sát chọn mẫu các DN
    trên lãnh thổ Việt Nam về năng lực của SVTN thuộc 2 khối ngành Kỹ thuật-Công
    nghệ và khối ngành Kinh tế-Quản lý được đào tạo từ các cơ sở ĐTĐH ở Việt Nam,
    hiện đang làm việc trong các DN này.
    5. Phương pháp nghiên cứu
    Trong luận án đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây:
    - Phương pháp phân tích hệ thống dựa trên việc thống kê, tổng hợp, so sánh các
    số liệu do các cơ quan có thẩm quyền trong nước và quốc tế công bố, phân tích
    kết quả của các nghiên cứu có liên quan để xây dựng cơ sở lý luận của đề tài và
    đưa ra một số đánh giá tổng quát trước khi đi vào xây dựng mô hình nghiên cứu
    cụ thể của luận án.
    - Phương pháp mô hình và phương pháp chuyên gia được sử dụng để xây dựng
    mô hình đánh giá sự hài lòng của DN về chất lượng đào tạo nhân lực trình độ
    ĐH với các tiêu chí và các chỉ số định lượng.
    - Phương pháp điều tra xã hội học, khảo sát thực tế với việc vận dụng mô hình đề
    xuất để đánh giá mức độ hài lòng của các DN ở Việt Nam về chất lượng đào tạo
    nhân lực trình độ ĐH hiện nay. Công cụ để xử lý số liệu thu được là phần mềm
    SPSS version 18 (PASW 18.0)
    6. Những đóng góp mới của luận án
    Là một đề tài nghiên cứu mang tính hệ thống liên quan đến sự hài lòng về chất
    lượng đào tạo nhân lực trình độ ĐH ở Việt Nam, luận án đã có những đóng góp mới cả
    về mặt lý luận và thực tiễn như sau:
     Về mặt lý luận:
    - Luận án đã hệ thống hóa được các vấn đề lý luận cả trong và ngoài nước về
    chất lượng ĐTĐH, chất lượng nhân lực, từ đó xây dựng được bộ tiêu chí đánh
    giá chất lượng đào tạo nhân lực trình độ ĐH ở Việt Nam dưới góc độ của các
    DN sử dụng lao động.
    - Luận án đã định lượng được vấn đề chất lượng đào tạo nhân lực trình độ ĐH ở
    Việt Nam dưới góc độ của các DN sử dụng lao động bằng các chỉ số chất lượng
    cụ thể.
    - Luận án đã hệ thống hóa được các mô hình đánh giá sự hài lòng về chất lượng
    sản phẩm, dịch vụ để từ đó đề xuất ra mô hình đánh giá sự hài lòng của DN về
    chất lượng đào tạo nhân lực trình độ ĐH ở Việt Nam.
    - Luận án đã tập hợp được kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về đánh giá
    chất lượng ĐTĐH, chất lượng NNL và sự hài lòng của người sử dụng lao động,
    để từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
     Về mặt thực tiễn:
    - Luận án đã đánh giá được toàn cảnh về chất lượng ĐTĐH và chất lượng NNL ở
    Việt Nam hiện nay.
    10

    - Dựa trên bộ tiêu chí và các chỉ số phản ánh chất lượng đề xuất, luận án đã
    lượng hóa được cụ thể chất lượng đào tạo nhân lực trình độ ĐH ở Việt Nam
    hiện đang được các DN đánh giá ở mức độ nào so với mong đợi của các DN.
    - Dựa trên mô hình nghiên cứu đề xuất, luận án đã kiểm định được các giả thuyết
    về mối quan hệ giữa chất lượng và sự hài lòng cũng như các giả thuyết về sự
    khác biệt trong đánh giá chất lượng và sự hài lòng trong lĩnh vực đào tạo nhân
    lực trình độ ĐH ở Việt Nam.
    - Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng về NNL và thực trạng ĐTĐH ở nước ta hiện
    nay, cùng với các kết quả điều tra, khảo sát của nghiên cứu, luận án đã đề xuất
    những khuyến nghị phù hợp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực trình
    độ ĐH ở Việt Nam đáp ứng nhu cầu của DN sử dụng lao động và làm họ hài
    lòng.
    Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích cho các cơ sở đào
    tạo, giúp cho họ biết được hiện chất lượng sản phẩm đầu ra của mình là năng lực của
    các SVTN đang được các DN sử dụng lao động đánh giá như thế nào, có phù hợp với
    yêu cầu của công việc không. Nếu phù hợp hay chưa phù hợp thì ở mức độ nào.
    Kết quả nghiên cứu của luận án cũng sẽ là những gợi ý để các nhà quản lý giáo
    dục tham khảo trong quá trình xây dựng các chương trình đào tạo, các chính sách quản
    lý giáo dục sao cho phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động.
    Cuối cùng, kết quả nghiên cứu của luận án sẽ là nguồn tham khảo hữu ích cho
    bản thân các sinh viên ĐH, những người đã, đang và sẽ trở thành bộ phận nhân lực
    quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, biết được các DN cần
    những kỹ năng gì ở người lao động, để họ có thể chuẩn bị tốt hành trang trước khi
    bước vào làm việc trong các DN.
    7. Kết cấu của luận án
    Luận án gồm 150 trang, 26 phụ lục và 155 tài liệu tham khảo. Ngoài phần mở
    đầu (10 trang), luận án gồm có 5 chương:
    Chương 1: Cơ sở lý luận về sự hài lòng của doanh nghiệp đối với chất lượng đào tạo
    nhân lực trình độ đại học (39 trang)
    Chương 2: Thực trạng chất lượng đào tạo nhân lực trình độ đại học ở Việt Nam
    (24 trang)
    Chương 3: Xây dựng mô hình đánh giá sự hài lòng của doanh nghiệp về chất lượng
    đào tạo nhân lực trình độ đại học ở Việt Nam (24 trang)
    Chương 4: Thử nghiệm và vận dụng mô hình đánh giá sự hài lòng của doanh nghiệp
    về chất lượng đào tạo nhân lực trình độ đại học ở Việt Nam (37 trang)
    Chương 5: Kết luận và khuyến nghị (16 trang)
     
Đang tải...