Tiến Sĩ Nghiên cứu cấu trúc pha trong một số mô hình vật lý không phục hồi đối xứng chiral

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 16/3/15.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Mục lục
    Lời cam đoan ii
    Lời cảm ơn . iii
    Danh mục các chữ viết tắt . vii
    MỞ ĐẦU 1
    1. Giới thiệu về Chuyển pha trong QCD 1
    2. Giới thiệu về Chuyển pha trong chất hạt nhân 3
    3. Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu . 5
    4. Đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu 7
    5. Phương pháp nghiên cứu 7
    6. Đóng góp của luận án 8
    7. Cấu trúc của luận án . 9
    1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 10
    1.1 Tác dụng hiệu dụng ở gần đúng một loop 10
    1.1.1 Đối với trường vô hướng . 11
    1.1.2 Đối với trường fermion 13
    iv1.2 Lý thuyết trường lượng tử ở nhiệt độ hữu hạn . 15
    1.2.1 Cơ sở chính tắc lớn 16
    1.2.2 Hàm Green nhiệt độ và phiếm hàm sinh . 16
    1.2.3 Các điều kiện đối với hàm Green nhiệt độ 18
    1.2.4 Hình thức luận thời gian ảo . 22
    1.2.5 Quy tắc Feynman . 24
    1.2.6 Sự dịch chuyển pha 24
    1.3 Lý thuyết trường trung bình 25
    1.3.1 Mô hình Walecka 26
    1.3.2 Lý thyết trường trung bình . 28
    1.3.3 Nhiệt động lực học của chất hạt nhân 29
    1.3.4 Trong giới hạn nhiệt độ không . 33
    1.3.5 Vật chất bất đối xứng spin đồng vị 36
    1.4 Cấu trúc pha QCD 38
    1.4.1 Đối xứng chiral, sự không hồi phục đối xứng chiral 38
    1.4.2 Phân biệt hai loại chuyển pha 39
    1.4.3 Giản đồ pha QCD được phỏng đoán 40
    2 CHUYỂN PHA LIFSHITZ TRONG MÔ HÌNH QCD HIỆU DỤNG
    KHÔNG PHỤC HỒI ĐỐI XỨNG CHIRAL 43
    2.1 Thế nhiệt động học 44
    2.2 Các đại lượng nhiệt động 46
    2.3 Sự không phục hồi của đối xứng chiral 48
    v2.4 Chuyển pha Lifshitz 51
    2.5 Kết luận . 59
    3 CHUYỂN PHA TRONG CHẤT HẠT NHÂN DỰA TRÊN MÔ
    HÌNH SIGMA TUYẾN TÍNH MỞ RỘNG KHÔNG PHỤC HỒI
    ĐỐI XỨNG CHIRAL 61
    3.1 Thế nhiệt động học 63
    3.2 Các đại lượng nhiệt động 64
    3.3 Tính chất bão hòa . 65
    3.4 Sự không phục hồi của đối xứng chiral 66
    3.5 Phương trình trạng thái và chuyển pha khí-lỏng 67
    3.6 Chuyển pha Lifshitz . 80
    3.7 Kết luận . 90
    KẾT LUẬN 91
    Các công trình đã thực hiện 93
    Tài liệu tham khảo 94
    PHỤ LỤC 100
    viDANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
    CEP critical end point (điểm kết thúc tới hạn)
    CFL color-flavor-locked (các số lượng tử màu và vị bị khóa)
    ELSM extended linear sigma model (mô hình sigma tuyến tính
    mở rộng)
    EoS equation of state (phương trình trạng thái)
    FS Fermi sphere (cầu Fermi)
    LGT liquid-gas transition (chuyển pha khí-lỏng)
    LHC large hadron collider (va chạm hadron được tạo ra
    bởi máy gia tốc lớn)
    LPT Lifshitz phase transition (chuyển pha Lifshitz)
    LSM linear sigma model (mô hình sigma tuyến tính )
    MFT mean-field theory (lý thuyết trường trung bình)
    NJLM Nambu-Jona-Lasinio model (mô hình Nambu-Jona-Lasinio)
    1PI 1- particle irreducible (bất khả quy một hạt)
    QCD quantum chromodynamics (sắc động lực học lượng tử)
    QCP quantum critical point (điểm tới hạn lượng tử)
    QED quantum electrodynamics (điện động lực học lượng tử)
    QGP quark-gluon plasma (plasma quark-gluon)
    QHD quantum hadron dynamics (động lực học hadron lượng tử)
    QPT quantum phase transition (chuyển pha lượng tử)
    RHIC relativistic heavy ion collider (va chạm ion nặng
    tương đối tính)
    SNR symmetry non-restoration (sự không phục hồi đối xứng)
    TCP tri-critical point (điểm ba tới hạn)
    viiMỞ ĐẦU
    1. Giới thiệu về Chuyển pha trong QCD
    Sắc động lực học lượng tử (QCD) thực sự được xem như là lý thuyết tương tác
    mạnh của các quark và các gluon. Tại thế hóa baryon µ B hữu hạn và nhiệt độ T hữu
    hạn, QCD có cấu trúc pha phong phú [25]. Chẳng hạn như, phục hồi đối xứng chiral
    tại µ B cao và (hoặc) T cao, chuyển pha từ pha Nambu-Goldstone đến pha plasma
    quark-gluon (QGP) ở T cao, chuyển pha từ pha Nambu-Goldstone đến pha siêu dẫn
    màu tại T thấp. Hình 1 là một phác họa giản đồ pha của QCD. Cho đến nay, người
    ta vẫn chưa biết được chính xác các đường chuyển pha trong các giản đồ pha đã
    phác họa, đó là do các nghiên cứu về chuyển pha khi có mặt đồng thời của cả nhiệt
    độ và mật độ là bài toán hóc búa. Trong tương lai gần các hiện tượng chuyển pha
    có cơ hội được kiểm chứng trong các phòng thí nghiệm va chạm ion nặng tương đối
    tính (RHIC) và va chạm hadron được tạo ra bởi máy gia tốc lớn (LHC). Đặc biệt,
    sự chuyển pha lượng tử từ pha Nambu-Goldstone đến pha siêu dẫn màu ở T thấp
    có liên quan đến phần bên trong của các ngôi sao neutron và các ngôi sao quark có
    thể có, nó cũng liên quan đến các tiến hành của thực nghiệm va chạm ion nặng.
    Trên giản đồ pha, vùng mà ở đó T nhỏ và µ B lớn có liên quan đến vật lý sao
    neutron. Bởi vì ở T thấp, dự kiến có nhiều phổ sắp xếp một cách trật tự. Đường
    phân cách pha của các số lượng tử màu và vị bị khóa (CFL) được dự đoán trong [2].
    Từ nhiệt độ cao hơn, pha hỗn hợp QGP là dạng đơn giản nhất của cấu trúc pha
    có thể có trong vùng này. Trạng thái này cũng được quan tâm đặc biệt, bởi vì các
    tính toán giải tích của lý thuyết có thể điều chỉnh được, do tính tự do tiệm cận của
    QCD. Các vùng trên giản đồ pha ứng với T khá lớn (T ∼ 100 MeV), mà có thể dễ
    dàng được thăm dò bởi thí nghiệm va chạm ion nặng, ứng với thang đo động lực
    12
    Hình 1: Giản đồ pha của QCD trong mặt phẳng thế hóa µ và nhiệt độ T.
    học trong QCD và µ B nhỏ hơn mức trung bình µ B ∼ (0 ư 600) MeV. Các nhà lý
    thuyết hy vọng rằng vùng này có những tính chất thú vị. Các vùng trên giản đồ
    pha ứng với T đủ lớn và (hoặc) µ B đủ lớn đã được nghiên cứu bởi các tính toán lý
    thuyết chặt chẽ. Tuy nhiên, các tính chất vật lý ở vùng này còn lâu mới có thể kiểm
    chứng được bằng thực nghiệm, ngay cả trong vật lý học thiên thể. Trạng thái có T
    cao và µ B cao cũng đã trở nên rõ ràng hơn bởi những tiến bộ liên tục của các mô
    phỏng mạng QCD. Các mô phỏng gần đây nhất [28] tính đến các quark động lực
    với các khối lượng thực tiên đoán chuyển pha chiral không giam cầm kiểu crossover
    tại nhiệt độ xung quanh 170 MeV. Vùng có T nhỏ và µ B nhỏ, tức là các hệ vật lý
    nằm trong pha hadron chỉ được nghiên cứu tới một chừng mực nào đó. Nhìn chung
    trạng thái với mật độ hữu hạn và nhiệt độ hữu hạn vẫn còn nhiều điều chưa biết và
    là đối tượng để xây dựng các mô hình nghiên cứu.
    Ngoài các kiểu chuyển pha đã nêu ở trên. Dựa vào các công trình cơ bản của
    Weinberg [69], Dolan và Jackiw [20], nhìn chung người ta tin tưởng rằng đối xứng
    chiral sẽ được phục hồi ở T cao từ pha bị phá vỡ tại T = 0. Tuy nhiên trong thực tế
    lại tồn tại các hệ vật lý thể hiện tính không phục hồi đối xứng (SNR) ở T cao, được
    quan sát thấy trong nhiều chất khác nhau [58]. Tính toán lý thuyết trong [4, 23] đã
    chứng minh rằng SNR thực sự xảy ra trong một số mô hình. Ý nghĩa vật lý của các
    hiện tượng đó là SNR có thể có những hệ quả ngoại lệ đối với vũ trụ học. Cụ thể là,
    trong kịch bản của SNR, vấn đề nan giải liên quan đến các khuyết tật topo trong mô3
    hình Big Bang chuẩn của vũ trụ học có thể được giải quyết [4, 23, 49, 57, 56]. Liên
    quan đến đối xứng chiral của QCD, các tính toán trong [48] đã chỉ ra rằng đối xứng
    chiral là không hồi phục tại T không giam cầm trong trường hợp khi Re[tr c (P)] < 0,
    ở đây P là loop Polyakov, điều này phù hợp với nghiên cứu mô phỏng [13]. Cho đến
    nay, cấu trúc pha của QCD đã từng bước được thiết lập nhờ mô phỏng mạng QCD
    [37] hoặc mô hình QCD hiệu dụng cho kịch bản của phục hồi đối xứng chiral tại µ
    cao và (hoặc) T cao. Tuy nhiên, vẫn còn thiếu thông tin về cấu trúc pha của QCD
    tương ứng với kịch bản không phục hồi đối xứng chiral.
    2. Giới thiệu về Chuyển pha trong chất hạt nhân
    Khảo sát các tính chất của các hệ hạt nhân khi chuyển pha tại µ B hữu hạn và
    T hữu hạn là một trong những chủ đề hấp dẫn nhất của vật lý hạt nhân hiện đại.
    Trong mười lăm năm qua chúng ta đã chứng kiến những nỗ lực tuyệt vời để tìm kiếm
    các bằng chứng thực nghiệm của chuyển pha khí-lỏng (LGT) của các hạt nhân nóng
    và chất hạt nhân, gần đây chúng ta đã có tiến bộ lớn trong việc tìm hiểu chuyển pha
    trong các hệ hạt nhân bởi tiến hành thực nghiệm các va chạm hạt nhân-hạt nhân
    với các mức năng lượng từ vài MeV/nucleon đến GeV/nucleon [8, 10, 7, 16, 9, 11].
    Tuy nhiên, sự tiên đoán của lý thuyết đã được thực hiện trước đó [3] và ngày nay
    các tính toán dựa trên các mô hình hiệu dụng khác nhau đã cung cấp nhiều các kết
    quả đáng tin cậy [53, 22, 64, 12, 61, 27, 14].
    Các công trình nghiên cứu chuyển pha của chất hạt nhân đã được khảo sát trong
    nhiều bài báo lý thuyết dựa trên cơ sở các mô hình hiện tượng luận thiết lập trực
    tiếp từ các bậc tự do nucleon. Các mô hình hạt nhân phi tương đối tính sử dụng các
    dạng khác nhau của thế năng tương tác nucleon-nucleon đã thu được nhiều thành
    công trong nghiên cứu chất hạt nhân ở mật độ thấp và năng lượng thấp. Tuy nhiên,
    lý thuyết hạt nhân phi tương đối tính lại thất bại khi phản ánh các tính chất vật
    lý của vật chất đông đặc. Cụ thể, khi mật độ chất hạt nhân cao ρ > 3ρ 0 , với ρ 0 là
    mật độ chất hạt nhân ở trạng thái bão hòa, thì lý thuyết hạt nhân phi tương đối
    tính vi phạm nguyên lý nhân quả, một trong những nguyên lý rất cơ bản của vật lý.
    Khi nghiên cứu chất hạt nhân ở mật độ cao và (hoặc) năng lượng cao thì hiệu ứng4
    tương đối tính trở nên quan trọng. Vì vậy, chúng ta cần phải phát triển lý thuyết
    hạt nhân tương đối tính. Có thể nói lý thuyết hạt nhân phi tương đối tính và lý
    thuyết hạt nhân tương đối tính là hai phần lý thuyết bổ sung cho nhau ở những
    thang năng lượng và thang mật độ nhất định.
    Lý thuyết hạt nhân tương đối tính nghiên cứu hạt nhân ở mật độ cao và (hoặc)
    năng lượng cao. Khi nghiên cứu chất hạt nhân ở mật độ cao và (hoặc) năng lượng
    cao thì về cấu trúc, ta không thể coi nucleon đơn thuần là một hạt mà phải đi vào
    cấu trúc bên trong của nucleon, tức là phải nói tới các hạt quark. Vì vậy, khi nghiên
    cứu chất hạt nhân ở mật độ cao và (hoặc) năng lượng cao thì phải tính đến các đối
    xứng của quark hay nói cách khác là phải tính đến các đối xứng của QCD. Ngoài
    bất biến tương đối tính ứng với phép biến đổi Lorentz, phải kể đến một đối xứng
    rất quan trọng là đối xứng chiral, một trong những đối xứng cơ bản của vật chất
    tương tác mạnh và là một trong những nhân tố cơ bản của lý thuyết hạt nhân tương
    đối tính. Cho đến nay, chuyển pha chiral vẫn là một trong những phát hiện thực
    nghiệm quan trọng nhất trong RHIC. Chuyển pha chiral trong trạng thái vật chất
    đông đặc đóng một vai trò quyết định trong nghiên cứu các tính chất vật lý của các
    hạt nhân kích thích cũng như cấu trúc của các sao mật độ cao và tiến trình hình
    thành vũ trụ. Lý thuyết hạt nhân phi tương đối tính không cần đến bất biến chiral
    vì nó chỉ khảo sát hạt nhân ở năng lượng thấp hay ở mật độ không cao, nhưng lý
    thuyết hạt nhân tương đối tính thì phải có.
    Một số mô hình hạt nhân có đối xứng chiral đã được xây dựng và nghiên cứu
    [36, 51, 68, 52], đối xứng này bị phá vỡ một cách tự phát ở mật độ không và (hoặc)
    nhiệt độ không và người ta thường tin rằng nó sẽ được phục hồi ở mật độ cao và
    (hoặc) nhiệt độ cao. Tuy nhiên, như đã nêu ở trên, đối xứng chiral có thể không
    phục hồi. Ngoài ra, có thể xảy ra trong chất hạt nhân quá trình LGT tại mật độ
    hạt nhân dưới mức bão hòa [63].
    Một hướng khác nghiên cứu chuyển pha của vật chất tương tác mạnh và đông
    đặc [67, 17, 31, 30, 32, 62] đó là chuyển pha topo ở nhiệt độ không, nó cũng cung
    cấp nhiều tính chất vật lý quan trọng. Cho đến nay, tồn tại hai kiểu phân loại áp
    dụng cho các hệ vật lý. Thứ nhất, là phân loại thông thường bởi đối xứng, nó phản
    ánh các hiện tượng phá vỡ một cách tự phát đối xứng khi năng lượng giảm. Thứ5
    hai, là phân loại với các trạng thái chân không theo tính chất topo của không gian
    xung lượng [45], nó phản ánh xu hướng ngược lại, đối xứng dần dần xuất hiện ở khu
    vực năng lượng thấp.
    Đối với tất cả các hệ Fermi trong không gian ba chiều và bất biến dưới phép biến
    đổi tọa độ, có bốn lớp phổ biến cơ bản của chân không được quy định bởi tính chất
    topo trong không gian xung lượng [45, 46, 15]. Một là, chân không với các mức năng
    lượng Fermi của khe năng lượng, chẳng hạn như chất bán dẫn, chất siêu dẫn và các
    hạt Dirac. Hai là, chân không với các mức năng lượng Fermi được đặc trưng bởi các
    điểm Fermi trong không gian xung lượng ba chiều, được xác định bởi E(~p) = 0. Ba
    là, chân không với các mức năng lượng Fermi được xác định bởi các mặt Fermi trong
    không gian xung lượng ba chiều. Bốn là, chân không với các mức năng lượng Fermi
    được đặc trưng bởi các đường trong không gian xung lượng ba chiều. Các chuyển
    pha ứng với các kiểu phân loại này là các chuyển pha lượng tử (QPT). Chuyển pha
    Lifshitz (LPT) là một QPT, nó được sinh ra bởi thăng giáng lượng tử tại T = 0 khi
    cấu trúc topo của hệ thay đổi từ trạng thái mật độ thấp với khe năng lượng hữu
    hạn mà ở đó mặt Fermi bị phá hủy sang trạng thái mật độ cao với mặt Fermi và nó
    chịu ảnh hưởng của T 6= 0 hữu hạn. Trong [45], Lifshitz xét cấu trúc topo của mặt
    Fermi thay đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác khi áp suất tăng. Chúng ta
    có thể đồng nhất trạng thái với khe năng lượng hữu hạn tương ứng với trạng thái
    chất lỏng không Fermi, trạng thái với mặt Fermi tương ứng với trạng thái chất lỏng
    Fermi. Trong những năm gần đây, LPT là một trong những chủ đề nóng trong vật
    lý chất rắn [19, 42, 70, 50, 29].
    3. Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu
    Nghiên cứu chuyển pha của vật chất xuất hiện từ những năm lăm mươi của thế
    kỷ trước, nó là một trong những vấn đề có tính thời sự cả về phương diện lý thuyết
    lẫn thực nghiệm trong nhiều lĩnh vực khác nhau của vật lý, từ vật lý hạt cơ bản đến
    vật lý thiên thể học. Trong đó, chuyển pha trong chất hạt nhân đã thu hút được
    nhiều sự quan tâm của nhiều nhà vật lý hạt nhân. Các công trình nghiên cứu về
    chuyển pha trong các mô hình khác nhau hầu hết chỉ đề cập đến chuyển pha nhiệt,6
    đây là chuyển pha được sinh ra bởi các thăng giáng nhiệt của các đại lượng vật lý
    khi nhiệt độ thay đổi và do đó tuân theo các nguyên lý của nhiệt động học. Trong
    mấy thập kỷ gần đây, người ta đã phát triển việc nghiên cứu một loại chuyển pha
    khác, đó là chuyển pha lượng tử, loại chuyển pha này được sinh ra bởi các thăng
    giáng lượng tử của các đại lượng vật lý ở nhiêt độ rất thấp và tuân theo các quy
    luật của cơ học lượng tử. Trong những năm gần đây, lý thuyết về chuyển pha lượng
    tử đã trở thành một lĩnh vực phát triển rất mạnh.
    Vật chất tương tác mạnh và đông đặc đã được các nhà vật lý hạt nhân quan tâm
    nghiên cứu từ lâu, nó là đối tượng cần và thích hợp để nghiên cứu cả về phương
    diện lý thuyết và thực nghiệm. Hiện nay, các thí nghiệm va chạm ion nặng ở năng
    lượng cao là công cụ tốt tạo ra vật chất tương tác mạnh và đông đặc, chúng cung
    cấp cơ hội để khám phá nhiều tính chất thú vị của vật chất ở điều kiện cực trị. Tính
    chất của vật chất tương tác mạnh và đông đặc, đặc biệt là các tính chất liên quan
    đến phục hồi đối xứng chiral và các kiểu chuyển pha của nó đang là tâm điểm của
    nhiều nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm. Tuy nhiên, trong thực tế lại tồn tại các
    hệ vật lý thể hiện tính SNR ở nhiệt độ cao, được quan sát thấy trong nhiều chất
    khác nhau. Tính toán lý thuyết đã chứng minh được tính SNR thực sự xảy ra trong
    một số mô hình.
    Các mô hình hạt nhân tương đối tính kiểu Walecka [59] đã tái hiện thành công
    nhiều tính chất vật lý của các hạt nhân nặng và trung bình. Các mô hình hạt nhân
    tương đối tính khác đã và đang được phát triển và thu được nhiều kết quả quan
    trọng. Tuy nhiên, tất cả các mô hình trên đều có một số thiếu sót nghiêm trọng, cụ
    thể là chúng không phản ánh đối xứng chiral. Một số các mô hình chiral đã được
    xây dựng và có khả năng được sử dụng để mô tả chất hạt nhân, trong số đó quen
    thuộc nhất là mô hình Nambu-Jona-Lasinio (NJLM) [54] và mô hình sigma tuyến
    tính (LSM) [24]. Các mô hình này đã có thể giải thích sự phá vỡ đối xứng chiral tự
    phát trong chân không và sự phục hồi đối xứng chiral tại mật độ cao. Tuy nhiên, lại
    thất bại trong việc tái hiện lại tính chất bão hòa của chất hạt nhân. Cụ thể, LSM
    chỉ tiên đoán trạng thái dị thường của chất hạt nhân [43], tại đó đối xứng chiral
    được phục hồi và khối lượng hiệu dụng của các nucleon bị triệt tiêu.
    Với các lý do trên, mục đích của luận án là nghiên cứu các kiểu chuyển pha có7
    thể có trong một số mô hình không phục hồi đối xứng chiral. Cụ thể là nghiên cứu
    LPT trong mô hình QCD hiệu dụng với các bậc tự do quark và nghiên cứu các kiểu
    chuyển pha khác nhau trong chất hạt nhân tại T hữu hạn và µ B hữu hạn trên cơ
    sở mô hình sigma tuyến tính mở rộng (ELSM) với các bậc tự do nucleon.
    4. Đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
    Đối tượng nghiên cứu của luận án là hệ vật chất tương tác mạnh và đông đặc,
    cụ thể là hệ vật chất thu được trong thí nghiệm va chạm ion nặng ở năng lượng cao,
    các hạt nhân và các sao neutron.
    Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án là sử dụng các mô hình QCD hiệu dụng và
    các mô hình hạt nhân có đối xứng chiral không phục hồi để nghiên cứu các cấu trúc
    pha và các kiểu chuyển pha.
    Phạm vi nghiên cứu của luận án là nghiên cứu các hệ vật chất tương tác mạnh
    và đông đặc ở nhiệt độ hữu hạn và mật độ hữu hạn trong mô hình chiral có tính
    SNR, với vùng vật chất được tạo ra bởi các thí nghiệm va chạm ion nặng nằm trong
    pha hadron, xung quanh đường LGT. Tại nhiệt độ không, nghiên cứu LPT.
    5. Phương pháp nghiên cứu
    Thực nghiệm chỉ ra rằng, khi năng lượng kích thích tăng dần, biểu hiện của các
    hạt nhân bị kích thích có thể được mô tả bởi nhiệt động học, vì vậy luận án sử dụng
    các khái niệm của vật lý thống kê.
    Đối tượng nghiên cứu của luận án là hệ vật chất tương tác mạnh và đông đặc
    ở nhiệt độ và mật độ mà các hiệu ứng tương đối tính trở nên quan trọng. Vì vậy,
    luận án sử dụng lý thuyết hạt nhân tương đối tính và lý thuyết trường lượng tử
    tương đối tính ở nhiệt độ hữu hạn, phương pháp nghiên cứu sử dụng trong luận án
    là phương pháp tác dụng hiệu dụng. Trong luận án, chúng tôi sử dụng các mô hình
    hiện tượng luận có đối xứng chiral không phục hồi để nghiên cứu cấu trúc pha và8
    các kiểu chuyển pha có thể có của vật chất tương tác mạnh và đông đặc theo các
    bậc tự do là các quark và các nucleon. Các tham số của mô hình được xác định bởi
    các ràng buộc lấy từ thực nghiệm như khối lượng của quark và nucleon trong chân
    không, cơ chế bão hòa của chất hạt nhân, . Trong quá trình tính toán, chúng tôi
    sử dụng phương pháp tính gần đúng trường trung bình đối với các trường meson và
    phương pháp tính gần đúng một loop đối với các trường quark và nucleon.
    Mô hình chúng tôi đặc biệt quan tâm là mô hình chiral trong [5, 6, 40]. Mô hình
    này thích hợp để lựa chọn làm điểm khởi đầu nghiên cứu, vì có đối xứng chiral
    không được hồi phục ở nhiệt độ cao, ngoài ra mô hình còn có một số tính chất vật
    lý thú vị khác [43, 44, 55]. Dựa trên mô hình đó, chúng tôi có được mô hình QCD
    hiệu dụng và ELSM. Các mô hình này vừa bao gồm các lý thuyết đối xứng cần thiết
    của lý thuyết tương tác mạnh trong lý thuyết trường lượng tử tương đối tính và lý
    thuyết hạt nhân tương đối tính, vừa thỏa mãn cơ chế bão hòa của chất hạt nhân và
    có đối xứng chiral không hồi phục.
    6. Đóng góp của luận án
    Từ mô hình QCD hiệu dụng và ELSM có đối xứng chiral không được phục hồi,
    sử dụng phép tính gần đúng trường trung bình cho các trường meson và gần đúng
    một loop cho các trường quark và nucleon, sử dụng phương pháp tác dụng hiệu
    dụng, chúng tôi thu được biểu thức giải tích của một số các đại lượng nhiệt động
    quan trọng. Sử dụng phần mềm mathermatica để tính số, chúng tôi biểu diễn được
    một số đại lượng nhiệt động theo T và µ B . Mô tả được một số quá trình chuyển pha
    có thể có trong chất quark, chất hạt nhân và chất neutron. Các kết quả mà chúng
    tôi thu được khác biệt so với những kết quả của các mô hình có đối xứng chiral được
    phục hồi [63, 62]. Điều này chứng tỏ rằng, khảo sát tính SNR của đối xứng chiral
    và các kiểu chuyển pha trong mô hình chiral có tính SNR, là một trong những vấn
    đề cần thiết và không thể thiếu khi nghiên cứu các tính chất của vật chất tương tác
    mạnh và đông đặc. Hy vọng rằng, có lớp mới hệ hạt nhân được đặc trưng bởi nhiều
    tính chất bất thường, trong đó có các tính chất bất thường được đề cập trong luận
    án. Có hay không thực sự tồn tại trong tự nhiên, là câu hỏi lớn mà chỉ có thể đượctrả lời bởi các thí nghiệm trong tương lai.
    7. Cấu trúc của luận án
    Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Phụ lục, luận án gồm ba chương:
    Chương 1: Một số vấn đề lý thuyết liên quan đến luận án
    Trình bày các phương pháp nghiên cứu đã sử dụng trong luận án và một số vấn
    đề lý thuyết liên quan đến luận án.
    Chương 2: Chuyển pha Lifshizt trong mô hình QCD hiệu dụng không
    phục hồi đối xứng chiral
    Sử dụng mô hình QCD hiệu dụng, thiết lập biểu thức giải tích của thế nhiệt động
    học và của các đại lượng nhiệt động liên quan. Từ đó, khảo sát tính SNR của đối
    xứng chiral và nghiên cứu LPT của mô hình.
    Chương 3: Chuyển pha trong chất hạt nhân dựa trên mô hình sigma
    tuyến tính mở rộng không phục hồi đối xứng chiral
    Sử dụng ELSM, thiết lập biểu thức giải tích của thế nhiệt động học và của các
    đại lượng nhiệt động liên quan. Từ đó, khảo sát tính SNR của đối xứng chiral và
    nghiên cứu các kiểu chuyển pha có thể có của chất hạt nhân và chất neutron của
    mô hình.
    Phần Kết luận là phần tổng kết các kết quả thu được trong luận án. Tiếp theo
    là Các công trình liên quan đến luận án và cuối cùng là Tài liệu tham khảo
    của luận án.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...