Thạc Sĩ Nghiên cứu các cú sốc tác động đến các biến số kinh tế vĩ mô của Việt Nam

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 15/11/13.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    NGHIÊN CỨU CÁC CÚ SỐC TÁC ĐỘNG
    ĐẾN CÁC BIẾN SỐ KINH TẾ VĨ MÔ CỦA
    VIỆT NAM
    Nghiên cứu các cú sốc tác động đến các biến số kinh tế vĩ mô của Việt Nam
    LỜI TỰA
    Bài luận văn sử dụng phương pháp định lượng bằng việc áp dụng mô hình Structural Vector
    Autoregression (Structural VAR), gọi tắt là SVAR, để nghiên cứu tác động của các cú sốc
    bên ngoài, nhất là cú sốc từ nền kinh tế Mỹ, đã tác động như thế nào tới các biến số kinh tế vĩ
    mô trong nước như cung tiền M1, lãi suất, tỷ giá hối đoái danh nghĩa, chỉ số giá tiêu dùng
    CPI, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP), tại Việt Nam và một số nước trong khu vực Châu Á
    giai đoạn từ 2004 đến 2012. Qua đó đo lường mức độ tác động của các cú sốc ngoại sinh tới
    Việt Nam và so sánh nó với các nước trong khu vực. Các nước được lựa chọn để so sánh với
    Việt Nam gồm: Nhật Bản, Hàn Quốc và Malaysia, dải dữ liệu lấy theo tháng từ tháng 1/2004
    đến tháng 12/2012. Dữ liệu được chạy và kiểm định trên phần mềm Eviews 6.0. Qua phân
    tích cho thấy mức độ ảnh hưởng của các biến ngoại sinh là dai dẳng, phản ứng cấu trúc của
    các nước trước các cú sốc ngoại sinh không đồng đều, các cú sốc có khuynh hướng mạnh ở
    kỳ 2-3 và sau đó khuynh hướng tiệm cận dần về giá trị 0 từ kỳ 13 trở đi. So với các nước thì
    khi phân tích phương sai cho thấy cung tiền M1 được giải thích nhiều bởi biến chỉ số giá sản
    xuất thế giới (WCPI), biến động của chỉ số giá tiêu dùng của Việt Nam được giải thích nhiều
    của biến chỉ số giá tiêu dùng của Mỹ (US_CPI); tương tự, biến động trong tỷ giá hối đoái của
    Việt Nam được giải thích nhiều bởi biến WCPI (lần lượt là 18.40% cho kỳ 6 và 17.89% ở kỳ
    24); so với các nước thì biến lãi suất của Việt Nam được giải thích nhiều bởi biến FED (sau
    Nhật Bản), mức độ giải thích này có khuynh hướng giảm dần theo thời gian.
    I. GIỚI THIỆU
    Chính sách tiền tệ luôn là công cụ giúp ổn định kinh tế vĩ mô với hạt nhân là ổn định tiền tệ,
    tạo lập nền tảng cho sự phát triển chung. Mặt khác, nền kinh tế thị trường bản chất là một nền
    kinh tế tiền tệ. Do đó, việc ổn định giá trị đồng tiền cùng với việc thiết lập nền tài chính quốc
    gia mạnh là một cơ sở đầu tiên cho việc kiềm chế lạm phát và ổn định nền kinh tế. Tùy vào
    đặc điểm kinh tế hay thời điểm cụ thể tại mỗi quốc gia mà chính sách tiền tệ có thể xác định
    theo hai hướng: chính sách tiền tệ mở rộng (tăng cung tiền, giảm lãi suất để thúc đẩy sản xuất
    kinh doanh, giảm tỷ lệ thất nghiệp nhưng lạm phát có thể tăng cao) hay chính sách tiền tệ thắt
    HVTH: Bùi Anh Chính Trang 1


    Nghiên cứu các cú sốc tác động đến các biến số kinh tế vĩ mô của Việt Nam
    chặt giúp ổn định đồng tiền (giảm cung tiền, tăng lãi suất làm giảm đầu tư vào sản xuất kinh
    doanh từ đó giảm lạm phát nhưng thất nghiệp tăng).
    Bằng nhiều công cụ khác nhau của chính sách tiền tệ như công cụ tái cấp vốn, tỷ lệ dự trữ bắt
    buộc, nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất tín dụng, làm cho vai trò của cơ quan điều hành
    (thường là Ngân hàng trung ương) giúp ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, tạo công
    ăn việc làm, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo sự ổn định nền kinh tế trong nước
    càng thể hiện rõ nét hơn.
    Mức độ hiệu quả của chính sách tiền tệ phụ thuộc vào khả năng của nhà hoạch định chính
    sách trong việc đánh giá chính xác thời điểm, mức độ ảnh hưởng của chính sách lên các hoạt
    động kinh tế và giá cả hàng hóa. Vì vậy nhu cầu đánh giá chính xác mức độ ảnh hưởng của
    các cú sốc kinh tế trong và ngoài nước hay mức độ ảnh hưởng của các chính sách tiền tệ lên
    nền kinh tế trong nước là một nhu cầu thiết yếu, giúp các nhà tạo lập chính sách đưa ra các
    quyết định đúng về chính sách tiền tệ nhằm đạt được mục đích phát triển ổn định nền kinh tế.
    Tại Việt Nam, kể từ khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
    chủ nghĩa, chính sách tiền tệ đã có nhiều đổi mới linh hoạt hơn, mang nhiều tính thực tiễn.
    Chẳng hạn, vào thời kỳ bao cấp quan niệm về lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế chỉ bao
    gồm tiền mặt và mức cung bao nhiêu, thì sang nền kinh tế thị trường bên cạnh lượng tiền mặt
    (C) còn tính đến khả năng tạo tiền của các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác (D).
    Hay như mức lãi suất cũng điều chỉnh linh động qua các năm, các giai đoạn kinh tế, chứ
    không cứng nhắc lãi suất cố định trong nhiều năm như thời kì bao cấp.
    Ngày nay, trong bối cảnh hội nhập sâu rộng nền kinh tế toàn cầu cũng như việc Việt Nam gia
    nhập nhiều tổ chức kinh tế thế giới như Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế Giới
    (Worldbank), tổ chức thương mại thế giới (WTO), diễn đàn hợp tác Á Âu (ASEM), hiệp hội
    các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương
    (APEC), hay hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương Việt Nam đã ký với
    tư cách quốc gia và tư cách thành viên như Việt Nam-ASEAN, Việt Nam - Nhật Bản,
    ASEAN - Trung Quốc, ASEAN - Australia/New Zealand, đặt Việt Nam vào sân chơi
    chung của Thế giới, chịu ảnh hưởng của nhiều tác động đến từ nội tại nền kinh tế cũng như
    HVTH: Bùi Anh Chính Trang 2


    Nghiên cứu các cú sốc tác động đến các biến số kinh tế vĩ mô của Việt Nam
    đến từ bên ngoài quốc gia. Để đáp ứng được quá trình hội nhập này, chính sách tiền tệ của
    Việt Nam cần phải thay đổi linh hoạt theo hướng thích nghi nhưng không bị hòa tan trước các
    cú sốc bên ngoài, từ đó nảy sinh nhu cầu cấp thiết cần phải nghiên cứu tác động của các cú
    sốc kinh tế nội sinh và ngoại sinh ảnh hưởng như thế nào và mức độ ảnh hưởng là bao nhiêu
    tới nền kinh tế trong nước, đại diện qua các biến kinh tế vĩ mô. Đây cũng chính là lý do tôi
    chọn đề tài “Nghiên cứu các cú sốc tác động đến các biến số kinh tế vĩ mô của Việt Nam”.
    Trên thế giới có nhiều phương pháp hay mô hình khác nhau để nghiên cứu ảnh hưởng của các
    cú sốc kinh tế như phương pháp VECM, phương pháp VAR, Structural VAR, Bayesian
    vector autoregression (BVAR), generalized method of moments (GMM), . tuy nhiên ở Việt
    Nam số lượng các nghiên cứu sử dụng các mô hình định lượng trên là rất ít, vì vậy bài nghiên
    cứu mong muốn sử dụng một trong những phương pháp trên, phương pháp Structural VAR
    (tạm dịch là mô hình vector tự hồi quy cấu trúc), để nghiên cứu ảnh hưởng hay tác động của
    các cú sốc bên ngoài, nhất là các cú sốc đến từ nền kinh tế Mỹ, tác động như thế nào tới các
    biến số vĩ mô của Việt Nam trong giai đoạn từ tháng 01/2004 đến tháng 12/2012. Dữ liệu
    được lấy theo tháng, ngoài biến chỉ số sản xuất công nghiệp Việt Nam được lấy từ Tổng cục
    thống kê Việt Nam, các biến khác được lấy từ dữ liệu IMF.
    Bài nghiên cứu tập trung vào giải quyết ba mục tiêu chính sau đây: đầu tiên là đo lường mức
    độ tác động của các biến ngoại sinh tác động như thế nào tới Việt Nam?; thứ hai là so sánh
    mức độ chịu ảnh hưởng của các biến vĩ mô Việt Nam so với một số nước khác như Nhật Bản,
    Hàn Quốc, Malaysia với cùng các yếu tố ngoại sinh bên ngoài (chủ yếu là các biến vĩ mô của
    Mỹ)?; và cuối cùng là đo lường phản ứng của chính các biến vĩ mô tại Việt Nam với nhau
    như thế nào?. Đây là các nước có kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam cao (theo số liệu thống
    kê của Cục hải quan Việt Nam), có mối quan hệ khá gần về địa lý nhau và cũng thường được
    chọn trong nghiên cứu về các cú sốc kinh tế tại thị trường mới nổi. Nên việc tìm hiểu ảnh
    hưởng của các cú số ngoại sinh ảnh hưởng như thế nào tới các nước này cũng khá quan trọng
    cho Việt Nam.
    Các cú sốc ngoại sinh bao gồm các cú số từ chỉ số giá hàng hóa thế giới (the world
    commodity price index), chỉ số sản xuất công nghiệp của Mỹ (U.S Indutrial Production
    HVTH: Bùi Anh Chính Trang 3


    Nghiên cứu các cú sốc tác động đến các biến số kinh tế vĩ mô của Việt Nam
    Index), chỉ số giá tiêu dùng CPI của Mỹ (U.S Consumer Price Index), lãi suất công bố của
    FED. Các biến số kinh tế vĩ mô trong nước bao gồm chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP), chỉ số
    giá tiêu dùng CPI, cung tiền M1, lãi suất cho vay bán buôn trung bình của các ngân hàng
    thương mại, tỷ giá hối đoái danh nghĩa tính theo USD. Các biến được chạy riêng biệt theo
    mô hình SVAR cho từng nước, sau đó so sánh các nước với nhau. Việc lựa chọn các biến phụ
    thuộc rất lớn vào việc xác định được ma trận toán Ao hay không (xem thêm phần 3.2.3), giúp
    mô hình Structural VAR có ý nghĩa thống kê với các biến nghiên cứu hay không, vì thế bài
    nghiên cứu sử dụng các biến nghiên cứu theo nghiên cứu của Raghavan and Param Silvapulle
    (2007)1 khi nghiên cứu về chính sách tiền tệ của Malaysia trước và sau cuộc khủng hoảng tài
    chính năm 1997. Các biến này cũng được Cushman và Zha (1997), Fung (2002) được sử
    dụng trong nghiên cứu về các nước trong khu vực Đông Nam Á.
    Bài nghiên cứu gồm các phần sau: phần 2 là tổng quan các nghiên cứu trước đây về ảnh
    hưởng của các cú sốc kinh tế, tiếp đến là phần phương pháp luận, dữ liệu nghiên cứu và cuối
    cùng là kết quả nghiên cứu cũng như những hạn chế trong nghiên cứu.
    II. CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY
    2.1 Các nghiên cứu nước ngoài
    a/ Đầu tiên là nghiên cứu Bartosz Mackowiak2 (2006), “External Shocks, U.S Monetary
    Policy and Macroeconomic Fluctuations in Emerging Markets”
    Bài nghiên cứu này, tác giả tập trung vào ba câu hỏi chính sau:
    - Mức độ biến động của các biến vĩ mô tại thị trường mới nổi được gây ra bởi các cú sốc
    ngoại sinh, cụ thể hơn là các cú sốc từ chính sách tiền tệ của Mỹ?
    - Các ảnh hưởng từ các cú sốc tiền tệ Mỹ lên thị trường mới nổi lớn hơn hay là nhỏ hơn
    trên chính nước Mỹ?
    - Các ảnh hưởng từ các cú sốc tiền tệ Mỹ tới thị trường mới nổi là nhanh chóng hay với
    một độ trễ?
    1 Bài “Structural VAR approach to Malaysian Monetary Policy Framework: Evidence from the Pre- and Post-Asian Crisis
    Periods”
    2 Department of Economics, Humboldt - Universitat zu Berlin, Germany
    HVTH: Bùi Anh Chính Trang 4


    Nghiên cứu các cú sốc tác động đến các biến số kinh tế vĩ mô của Việt Nam
    Tác giả sử dụng mô hình Structural VAR (SVAR) với các biến kinh tế vĩ mô của một số nước
    tại thị trường mới nổi, Mỹ và giá cả hàng hóa thế giới. Với giả định rằng một thị trường mới
    nổi là một nền kinh tế nhỏ mở (a small economy). Với giả thiết này giúp loại bỏ việc các biến
    nội sinh (trong nước) tác động mạnh lên các biến ngoại sinh (nước ngoài) và giúp đo lường
    tốt hơn mức độ ảnh hưởng của các biến ngoại sinh lên các biến vĩ mô trong nước.
    Mô hình Structural VAR mà tác giả sử dụng diễn giải như sau:
    P
     A ( s ) A ( s )   y ( t  s )    ( t ) 
    11 12 1 1
    =
          
    A ( s ) A ( s ) y ( t  s )  ( t )
    S  0  21 22   2   2 
    Trong đó,
    - Vector biến nội sinh y1 = {lãi suất ngắn hạn, tỷ giá hối đoái, sản lượng thực (real
    aggregate output), chỉ số giá cả (aggregate price level)}
    - Vector biến ngoại sinh y2 = {lãi suất của FED, chỉ số giá hàng hóa thế giới, cung tiền
    của Mỹ, sản lượng thực của Mỹ (the U.S real aggregate output), chỉ số giá cả của Mỹ
    (the U.S aggregate price level)}.
    -  ( t )  [  ( t );  ( t )] là vector theo phân phối ngẫu nhiên Gaussian thỏa mãn
    1 2
    E[  (t ) | y (t  s), s  0]  0 và E[ E (  (t )  (t ' ) | y (t  s), s  0]  I
    -  ( t ) là vector cú sốc cấu trúc (structural shocks) có nguồn gốc nội sinh (trong nước).
    1
    - ( )  t là vector cú sốc cấu trúc có nguồn gốc ngoại sinh (nước ngoài).
    1
    - Do có giả định một nền kinh tế mới nổi là một nền kinh tế nhỏ mở (small open
    economy), nên A21(s) =0 (với s = 0,1, ,p).
    Bài nghiên cứu, nghiên cứu tại 08 nước mới nổi gồm HongKong, Hàn Quốc (Korea),
    Malaysia, Phillipines, Singapore, Thái Lan và các nước Châu Mỹ Latinh là Chilê và Mexico,
    với dải dữ liệu lấy từ tháng 1/1986 đến 12/2000, trừ Thái Lan từ tháng 1/1987 do thiếu dữ
    liệu.
    Tác giả tìm thấy kết quả rằng:
    HVTH: Bùi Anh Chính Trang 5


    Nghiên cứu các cú sốc tác động đến các biến số kinh tế vĩ mô của Việt Nam
    - Các cú sốc ngoại sinh giữ vai trò quan trọng trong việc giải thích sự biến động trong
    các biến số kinh tế vĩ mô tại các thị trường mới nổi, ở đây là khu vực Đông Nam Á và
    khu vực Châu Mỹ Latinh. Các biến này giải thích gần 1/2 biến động trong tỷ giá hối
    đoái (chẳng hạn Thái Lan là 60% cho kỳ 1-24, 65% cho kỳ 25-48; Malaysia là 55%
    cho kỳ 1-24, 58% cho kỳ 25-48 ) và mức giá (chẳng hạn Singapore là 51% cho kỳ 1-
    24, 81% cho kỳ 25-48; Mexico là 47% cho kỳ 1-24, 78% cho kỳ 25-48); giải thích
    khoảng 1/5 trong biến động trong lãi suất (chẳng hạn Philippines là 29% cho kỳ 1-24,
    42% cho kỳ 25-48) và sản lượng thực (chẳng hạn Hongkong là 50% cho kỳ 1-24, 72%
    cho kỳ 25-48).
    - Mức độ giải thích của các biến ngoại sinh là khác nhau giữa các thị trường khác nhau.
    - Qua bài nghiên cứu, tác giả cũng đề xuất rằng các cú sốc ngoại sinh nên đóng một vai
    trò quan trọng trong các mô hình áp dụng cho thị trường mới nổi; và những thay đổi
    trong tỷ giá bên ngoài có thể có các ảnh hưởng khác nhau phụ thuộc vào có hay không
    việc chúng phản ảnh cú sốc với chính sách tiền tệ của Mỹ hay phản ứng mang tính hệ
    thống từ lãi suất của Fed đến các loại cú sốc khác; cũng như làm thế nào để giữ cân
    bằng nền kinh tế trước ảnh hưởng của các cú sốc bên ngoài.
    b/. Tiếp đến là nghiên cứu của 03 tác giả Jean-Pierre Allegret, Cécile Couharde và Cyriac
    Guillaumin, bài nghiên cứu “The impact of External Shocks in East Asia: Lessons from a
    Structural VAR Model with Block Exogeneity”. Các tác giả muốn kiểm tra mức độ ảnh hưởng
    của các cú sốc ngoại sinh (external shocks) tới các biến động trong nước tại các nước Đông
    Nam Á (East Asian) bằng mô hình Structural VAR với các biến chia làm 02 nhóm vector:
    vector các biến nội sinh (y2) và vector các biến ngoại sinh (y1). Các biến nội sinh gồm: sản
    lượng thực (yd)3, chỉ số giá nhà sản xuất trong nước (pd), và tỉ giá danh nghĩa tính theo USD
    (nd); biến ngoại sinh gồm có giá dầu thực (rBent - the real oil price), GDP thực của Mỹ
    (U.S.gdp - the real U.S.GDP), lãi suất của Fed (Fed Funds - the Fed Funds interest rate) và
    chỉ số MSCI (MSCI). Các tác giả nghiên cứu tại các nước: Trung Quốc, Hàn Quốc, Hồng
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...