Thạc Sĩ Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu

Thảo luận trong 'Văn Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    TÊN ĐỀ TÀI: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu​
    Information

    MS: LVVH-LLVH011
    SỐ TRANG: 126
    NGÀNH: VĂN HỌC
    CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VĂN HỌC
    TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM
    NĂM: 2008



    Information



    MỞ ĐẦU

    1. Lí do chọn đề tài:

    Văn học Việt Nam từ buổi sơ khai đến nay đã trải qua nhiều thời
    kì. Mỗi thời kì đều để lại dấu ấn riêng với những tác giả tác phẩm sống mãi
    trong lòng bao thế hệ độc giả. Hòa trong công cuộc đổi mới đất nước, văn học
    sau 1975 cũng đổi mới tư duy nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật tiểu thuyết.
    Nếu như nền văn học cách mạng của ta trong suốt ba mươi năm (1954-1975)
    đã khơi dậy và phát triển cao độ ý thức cộng đồng dân tộc mà cốt lõi là tinh
    thần yêu nước, tinh thần dân tộc, và ý thức giai cấp thì sau 1975; khi đất nước
    hòa bình, cuộc sống đã trở lại với qui luật bình thường, con người lại trở về
    với muôn mặt của đời sống thường nhật, phải đối diện với bao nhiêu vấn đề
    trong một giai đoạn có nhiều biến động, đổi thay đã thức tỉnh ý thức cá nhân;
    đòi hỏi phải có sự quan tâm đến từng con người, từng số phận, văn học phải
    đáp ứng nhu cầu đó. Do vậy, tiểu thuyết thời kì đổi mới có những chuyển biến
    phong phú, đa dạng, làm nóng lại không khí có phần lặng lẽ của tiểu thuyết
    giai đoạn trước. Con đường đổi mới này dẫu còn nhiều thử thách, dẫu chưa
    thật hoàn thiện nhưng chúng ta thấy cũng đã phần nào định hình.Trên con
    đường ấy, có thể nói, Lê Lựu là một trong những tác giả đặt những bước chân
    đầu tiên để lại dấu ấn sau đậm trong lòng người đọc với Thời xa vắng, tiểu
    thuyết đoạt giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam. Tác phẩm đã gây được
    tiếng vang, thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu văn học về việc đổi
    mới tư duy nghệ thuật trong tiểu thuyết. Độc giả đã biết đến Lê Lựu từ trước
    “Thời xa vắng” với những truyện ngắn làm rung động lòng người như: Trong
    làng nhỏ, Người cầm súng, Chuyện kể từ đêm trước, Người về đồng cói, Quê
    hương người lính và quyển tiểu thuyết đầu tiên: Mở rừng. Nhưng phải đến
    Thời xa vắng thì Lê Lựu mới thật sự trở thành một hiện tượng. Người ta thấy
    khắp nơi diễn đàn về “Thời xa vắng”. Anh chàng nhà quê Giang Minh Sài của
    nhà văn đi vào tận các ngõ ngách của cuộc sống, hắn vượt cả biên giới, ra
    khỏi địa phận nước Việt. Có thể nói Lê Lựu đã thành công vang dội. Sau
    thành công ấy, ông vẫn miệt mài lao động và những đứa con tinh thần của ông
    lại lần lượt ra đời như : Đại tá không biết đùa (1989), Chuyện làng Cuội
    (1991), Sóng ở đáy sông (1995), Chuyện hai nhà (2000). Tất nhiên, không
    phải những tác phẩm của ông đều thành công, đều là những đỉnh cao của văn
    học nhưng không thể phủ nhận rằng sáng tác của ông đều thể hiện tinh thần
    miệt mài lao động, sự nghiêm túc của nhà văn trên con đường tìm tòi, sáng
    tạo hướng đi mới cho tiểu thuyết. Trong từng tác phẩm ông đã thể hiện sự đổi
    mới của mình ở nhiều góc độ. Chính sự đổi mới ấy đã góp phần đem đến cho
    văn học những hình tượng mới lạ về người lính trong chiến tranh, người lính
    trong đời thường và những hiện tượng nóng bỏng đang được quan tâm trong
    xã hội.
    Trong quá trình lao động miệt mài, nghiêm túc, Lê Lựu đã khẳng định
    mình ở nhiều thể loại như : tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch, tạp văn Thành
    quả nghệ thuật của ông được khẳng định trong một loạt giải thưởng như: giải
    nhì hội thi truyện ngắn báo Văn Nghệ 1967-1968 (không có giải nhất) với
    truyện ngắn Ngươi cầm súng, giải A cuộc thi viết về thương binh của Hội nhà
    văn, Bộ thương binh với truyện Người về đồng cói. Đặc biệt với giải thưởng
    của Hội nhà văn dành cho Thời xa vắng, đã có hàng loạt bài phát biểu về tiểu
    thuyết của ông. Có thể nói Lê Lựu đã trở thành cây bút của văn chương
    đương đại được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Vậy cái gì đã tạo nên sự
    thành công cho Lê Lựu? Có rất nhiều yếu tố, trong đó theo tôi không thể
    không kể đến nghệ thuật xây dựng tác phẩm của tác giả mà cụ thể là nghệ
    thuật trần thuật của ông. Tuy nhiên, ở góc độ thi pháp thì chưa có công trình
    nghiên cứu một cách hệ thống tác phẩm của ông mà chỉ khai thác ở vài khía
    cạnh trong các bài viết tản mác.
    Nhìn chung, sáng tác của Lê Lựu không phải tất cả đều là đỉnh cao, là
    kiệt tác nhưng nó có sức hấp dẫn riêng làm cho người đọc đã chạm vào rồi thì
    khó mà dứt ra được hay nói như Trần Đăng Khoa “Lê Lựu biết cuốn hút
    người đời bằng một thứ văn không nhạt. Ngay cả những truyện xoàng xoàng,
    người đọc vẫn thu lượm được một cái gì đấy, có khi là một chi tiết, một đoạn
    tả cảnh hoặc một nét phác họa tính cách nhân vật” [51,tr.80]. Lê Lựu có một
    vị trí khá quan trọng trong thời kì đổi mới văn học, tác phẩm của ông xứng
    đáng được nghiên cứu riêng biệt trong một công trình. Vì vậy, trong luận văn
    này, chúng tôi sẽ vận dụng một số kiến thức về Lí luận văn học và văn học
    thời kì đổi mới mà bản thân lĩnh hội được trong quá trình học tập để tìm hiểu,
    sắp xếp, hệ thống các vấn đề có liên quan đến nghệ thuật xây dựng tiểu
    thuyết của Lê Lựu mong chỉ ra được một số nét nổi bật trong phong cách trần
    thuật của nhà văn nhằm góp phần vào việc nghiên cứu tác phẩm của ông một
    cách sâu sắc hơn, toàn diện hơn. Hy vọng rằng,với luận văn này, chúng tôi có
    thể đóng góp một phần nhỏ trong công trình nghiên cứu chung về Lê Lựu để
    thấy được đóng góp của nhà văn đối với văn học dân tộc trong quá trình đổi
    mới tiểu thuyết cũng như góp phần nhìn nhận vị trí của nhà văn trong văn học
    đương đại.

    2. Giới hạn đề tài:

    Lê Lựu có vị trí khá vững chắc trong lòng bạn đọc bởi qúa trình
    sáng tác tương đối dày với hàng loạt tác phẩm ở nhiều thể loại khác nhau
    trong nhiều giai đoạn khác nhau, ở những chủ đề khác nhau. Nhưng do hạn
    chế về mặt thời gian cũng như khả năng nghiên cứu nên người viết chỉ tập
    trung khảo sát các tiểu thuyết:
    - Mở rừng (1975)
    - Ranh giới (1979)
    - Thời xa vắng (1986)
    - Đại tá không biết đùa (1989)
    - Chuyện làng Cuội (1991)
    - Sóng ở đáy sông (1995)
    - Hai nhà (2000)

    3. Lịch sử vấn đề:

    3.1 Phần mở đầu:

    Cái tên Lê Lựu đã không còn xa lạ với độc giả. Ông là nhà văn sáng
    tác ở nhiều thể loại và khá thành công. Là nhà văn mang đặc chất quê nhưng
    kì thực vốn sống của ông vô cùng phong phú với kho tàng là sự trải đời lọc
    lõi. Ông thuộc lớp nhà văn quân đội, ra đời và trưởng thành trong thời kì
    chống Mĩ cứu nước. Người đọc biết đến tên Lê Lựu với tác phẩm trình làng
    Tết làng mụa (1964). Sau đó là các truyện ngắn: Người cầm súng, Phía mặt
    trời, Chuyện kể từ đêm trước và đến Người về đồng cói thì ông đã thật sự
    tạo được dấu ấn trong lòng độc giả. Đây cũng là tác phẩm đoạt giải trong cuộc
    thi viết về thương binh của Hội nhà văn và Bộ thương binh. Hơi hướng tiểu
    thuyết đã xuất hiện trong những truyện ngắn của ông như dự báo một thành
    công xa hơn nữa và mọi người vẫn khắc khoải mong chờ một tiếng vang, một
    bước nhảy xa hơn nữa ở Lê Lựu. Không phụ lòng độc giả, quyển tiểu thuyết
    đầu tiên của ông ra đời, đó là Mở rừng (1975). Đây là quyển tiểu thuyết đề tài
    chiến tranh có thể nói là khá thành công. Tác giả xây dựng hình ảnh một cuộc
    chiến oai hùng nhưng cũng không kém phần bi thảm của các chiến sĩ Trường
    Sơn. Tác phẩm đã phần nào tạo được dấu ấn riêng, mới mẻ. Trong thời điểm
    bấy giờ, Mở rừng ra đời thể hiện một cách nhìn nhận hiện thực có phần
    mạnh dạn của nhà văn so với xu thế thời đại là sự náo nức của lòng người
    trước chiến thắng vang dội 1975. Tuy nhiên để có được Lê Lựu trong lòng
    người đọc lúc bấy giờ và cho đến mai sau thì phải nói đến Thời xa vắng. Nó là
    đứa con ngoan của nhà văn. Đứa con này đã đem đến nét mới mẻ thật sự đã
    được nhen nhuốm từ Mở rừng. Cái Thời xa vắng rất gần ấy đã làm xôn xao dư
    luận. Ở đâu cũng nghe thời xa vắng, ở đâu cũng thấy Giang Minh Sài, thậm
    chí Lê Lựu còn được gọi là cu Sài!
    Lê Lựu thuộc kiểu nhà văn viết bền. Sau thành công của Thời xa vắng
    ông không dừng lại, tự mãn mà vẫn đi tiếp con đường mình đã mở dù cho khá
    chông gai, chông gai như bước chân của những chiến sĩ mở đường Trường
    Sơn. Họ vẫn đi vì ngày mai tươi sáng. Lê Lựu cũng có niền tin ấy, lòng dũng
    cảm ấy, ông cũng là người lính mà! Ông bền chí ơ công việc thay đổi cách
    viết tiểu thuyết của mình. Vì vậy, Đại tá không biết đùa, Chuyện làng Cuội,
    Sóng ở đáy sông, Hai nhà tiếp tục ra đời. Tất nhiên không phải tất cả đều
    thành công nhưng mỗi tác phẩm đều có một nét riêng đáng cho ta quan tâm.
    Cho đến nay, trong mấy mươi năm sáng tác, Lê Lựu đã có một khối lượng tác
    phẩm đáng trân trọng.

    3.2 Những ý kiến xung quanh nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu:

    Tiểu thuyết Lê Lựu gắn liền với quá trình đổi mới tiểu thuyết của văn
    học Việt Nam. Nó đem đến cho người đọc những ấn tượng mới mẽ về một
    phong cách nghệ thuật riêng biệt của nhà văn quân đội Lê Lựu. Tùy vào cảm
    hứng tiếp cận, mục đích và phạm vi khai thác vấn đề, các nhà nghiên cứu đã
    đề cập tới một số khía cạnh nổi bật về nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết
    của ông với mức độ đậm nhạt, nhiều ít khác nhau. Một trong những nét nổi
    trội trong lối tự sự của Lê Lựu được các nhà nghiên cứu quan tâm, đề cập tới
    là lối hành văn tự nhiên của ông và sự cách tân, tìm tòi cái mới trong cách
    thức trần thuật. Trong từng tác phẩm khác nhau, ở nhiều góc độ khác các nhà
    nghiên cứu đều thống nhất với nhau rằng Lê Lựu luôn có cách tân trong trần
    thuật, luôn làm mới tiểu thuyết của mình. Ông không bao giờ bằng lòng với
    lối mòn cũ. Ở mỗi tiểu thuyết của ông người đọc đều có thể nhìn thấy sự cách
    tân của nhà văn đặc biệt là sự đổi mới hình tượng người trần thuật, kết cấu lời
    văn trần thuật. Nói như Ngô Thảo: “Hầu như anh không vừa lòng với bất cứ
    bề mặt phẳng phiu, một kết cấu quen thuộc nào. Anh dẫn người đọc đi từ xa
    tới gần từ gần lại bật ra xa, đang chuyện hôm nay bỗng quay bật về qúa khứ,
    đang từ tuyến trước sang chuyện tuyến sau, từ phía trong ra phía ngoài, từ nội
    tâm trực tiếp qua lời người kể của người khác ” [102,tr. 215]. Văn của ông
    không phải là kiểu văn dễ dãi quen thuộc, đọc qua một lần là có thể hiểu hết
    các tầng ý nghĩa. Với mỗi lần tiếp xúc tác phẩm là một lần người đọc tìm
    thêm một vấn đề nào đó. Những vấn đề đó được nhà văn giấu kín trong lời
    văn của mình mà nói như Trần Đăng Khoa thì đó là “thứ văn không nhạt”,
    ông nhận xét : “Lê Lựu biết cuốn hút người đời bằng một thứ văn không nhạt.
    Ngay cả những truyện xoàng xoàng người đọc vẫn thu lượm được một cái gì
    đấy , có khi là một chi tiết, một đoạn tả cảnh hoặc một nét phác họa tính cách
    nhân vật.” [51, tr.80]. Cùng suy nghĩ với Trần Đăng Khoa, Đinh Quang Tốn
    cũng cho rằng văn của “anh chàng nhà quê” có một sức hút vô hình bằng lời
    văn mang phong cách riêng: “Văn anh không rành rẽ, không mạch lạc nhưng
    có chất nhựa gì đấy ở bên trong. Nhiều khi cả đoạn cả trang cứ thùng thình
    mà người đọc vẫn thấy thích, không ai chê vì người ta biết đấy là văn tự
    nhiên của riêng anh, chứ không phải anh làm văn mà chê anh về văn phạm”
    [93, tr.17]. Chính chất văn tự nhiên ấy đã đem đến cho chúng ta những trang
    viết đặc sắc về những cảnh sinh hoạt của nông thôn miền Bắc; về hình ảnh
    người lính trong chiến tranh, người lính trong thời bình. Nhìn nhận tiểu thuyết
    thuyết Lê Lựu ở góc độ trần thuật, nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến lại chú ý
    đến câu văn, ông đặc biệt hứng thú với kiểu đặt câu của Lê Lựu, thừa nhận sự
    thành công trong nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết không dừng lại ở lời văn
    mạch lạc. Cũng như Đinh Quang Tốn, ông cho rằng Lê Lựu có văn phong
    riêng : “Trong Thời xa vắng câu văn lùa thùa có khi mềm và rối như bún
    nhưng lại rất được. Câu văn Lê Lựu là một sự thách đố với cách đặt câu quá
    mạch lạc, gẫy gọn do sự thấm nhuần ngữ pháp của một ngôn ngữ phương Tây
    tạo ra“ [35, tr.119]. Cũng nhận xét về nghệ thuật trần thuật, La Khắc Hòa
    quan tâm đến người trần thuật : “Người trần thuật kể lại câu chuyện về cuộc
    đời Giang Minh Sài không phải là để người đọc có dịp được suy ngẫm, mà là
    để nó được nói thật to những điều hình như nó đã ngẫm nghĩ xong xuôi. Cho
    nên chỗ nào nó cũng lắm lời, lời kể của nó đã lùa thùa, dài dòng mà cái luận
    đề thì lộ rất rõ. Đã thế tác phẩm lại cố gò để kết thúc có hậu { }. Nguyên tắc
    trần thuật sử thi cũng để lại dấu ấn ở mối quan hệ giữa người kể chuyện và
    người đọc trong Thời xa vắng. Nhưng đặt bên cạnh những tác phẩm cùng
    thời, tiểu thuyết của Lê Lựu đúng là bước ngoặt của tiếng trình đổi mới văn
    xuôi nghệ thuật” {95, tr.66}. Ngô Thảo cũng thừa nhận sự tìm tòi sáng tạo lời
    văn trần thuật của Lê Lựu là một công việc cần được khích lệ: “Cũng sẽ buồn
    cười và lố bịch nữa khi khuyên Lê Lựu chọn cách viết chân mộc cổ điển. Chỉ
    có thể nghĩ là anh hiểu biết đầy đủ đối tượng khi điều anh muốn nói là tâm
    đắc, sáng tỏ thì anh sẽ có được cách thể hiện thích hợp, dù hoa mỹ bay bướm
    một chút hay mộc mạc thật thà cũng không quan trọng gì” {102, tr.217}.
    Nhận xét về kiểu kết cấu trần thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu, Trần Đăng Khoa
    cũng chú ý tới kiểu kết cấu truyện lồng trong truyện trong tiểu thuyết Mở
    rừng. Ông cho rằng: “Đấy là cuốn tiểu thuyết viết trực tiếp về chiến tranh với
    cái nhìn không đơn giản và ở thời điểm đó, đã có thể coi là mạnh dạn. Lê Lựu
    đề cập đến số phận của một lớp ngươì trong chiến tranh. Oai hùng và bi
    thảm. Giản đơn và phức tạp. Mỗi người là một cách rừng âm u rậm rịt, phải tự
    mở lấy lối mà đi. Chẳng ai giống ai, bằng những con đường riêng, những số
    phận riêng, họ đã đến với cuộc chiến tranh bi tráng“{51,tr.83}. Nhiều nhà
    nghiên cứu thống nhất ý kiến rằng Thời xa vắng là câu chuyện về cuộc đời
    Giang Minh Sài nhưng mở ra rất nhiều vấn đề, tạo nên tính nhiều tầng bậc
    cho câu chuyện. Người đọc có thể tìm thấy ở đó từ những vấn đề lớn lao đến
    những vấn đề vụn vặt trong đời sống. Nguyễn Bích Thu viết : “Có lẽ to
    chuyện qúa chăng? Nhưng Thời xa vắng là những trang bi kịch về sự hôn
    phối đó, sự xen cài vào nhau đó: chiến tranh rồi hòa bình, nông thôn ra thành
    phố, “nhà quê” và “kẻ chợ” Không phải người viết đưa hai mảng ngẫu
    nhiên bập vào nhau, cho tồn tại bên nhau, mà gắn nối cài xen với nhau như là
    sự tiếp tục và phát triển tự nhiên của lịch sử” [96].
    Một đặc điểm nổi bật khác cũng được chú ý trong tiểu thuyết Lê Lựu
    là chất giọng giễu nhại. Các nhà nghiên cứu đều nhìn nhận sự thành công của
    nhà văn khi sử dụng chất giọng trầm tĩnh và chất giọng giễu nhại để phản ánh
    hiện thực. Nhận xét về một trong những yếu tố đem đến thành công cho Lê
    Lựu trong Thời xa vắng, nhà nghiên cứu Thiếu Mai cho rằng : “Cách nhìn
    thấu đáo của anh, tấm lòng thiết tha của anh đã thể hiện đầy đủ ở giọng văn,
    một giọng văn trầm tĩnh vừa giữ được vẻ đầm ấm chân tình, vừa khách quan
    không thêm bớt tô vẻ, đặc biệt không cay cú, chính giọng văn như vậy đã góp
    phần đáng kể vào sức thuyết phục hấp dẫn của tác phẩm” [65]. La Khắc Hòa
    thì cho rằng: “Thời xa vắng của Lê Lựu là một tiểu thuyết giễu nhại độc đáo.
    Nó không cần sử dụng những thủ pháp lạ hóa quen thuộc như phóng đại hay
    vật hóa hình ảnh con người để làm nổ ra tiếng cười. Nó chỉ đơn giản thuật lại
    những chuyện “thật như đùa” mà đã có thể tạo ra được một hình tượng giễu
    nhại. Nhờ thế lời văn của Thời xa vắng khi thì như bông đùa, lúc lại xót xa,
    chì chiết nhưng giễu nhại bao giờ cũng là giọng chủ đạo của nó”. {96, tr.66-
    67}. Cũng đề cập tới giọng trần thuật, Đỗ Tất Thắng nhận xét về thái độ của
    nhà văn trong Thời xa vắng: “Lê Lựu phê phán một thời đã qua, mổ xẻ nó
    nhưng không hề oán trách, không cay nghiệt, không nổi khùng. Anh phê phán
    những dư luận, hoàn cảnh làng xã những năm sáu mươi đã tạo nên tính cách
    Giang Minh Sài, đã làm khổ cuộc đời Sài mấy chục năm trời, nhưng anh
    không hề bôi bác, chê bai những người nông dân. Trong Thời xa vắng anh đã
    viết những trang nồng ấm tình người về người nông dân chân lắm tay bùn,
    một nắng hai sương. Ngòi bút Lê Lựu viết về nông thôn thật là nhân hậu”
    {102}.
    Nhìn nhận đóng góp của Lê Lựu về mảng tiểu thuyết lẫn truyện ngắn,
    Đinh Quang Tốn cho là “Lê Lựu viết đều cả truyện ngắn và tiểu thuyết và cả
    hai thể loại anh đều thành công, nhưng thành công hơn vẫn là tiểu thuyết. Đê
    tài hậu phương nông thôn miền Bắc trong chiến tranh chống Mỹ có nhiều
    người viết, nhưng Lê Lựu là người viết thành công hơn cả. Hình ảnh anh nông
    dân mặc áo lính trở thành viên chức ở thành thị cũng có nhuững nhà văn đề
    cập đến, nhưng Lê Lựu đã thành công hơn. Có lẽ đó là hai thành công tiêu
    biểu nhất của Lê Lựu” [93, tr.22].
    Tiểu thuyết của Lê Lựu còn được nhìn nhận ở những góc độ khác
    Nguyễn Bích Thu nhận xét về việc khai thác đề tài trong tiểu thuyết Lê Lựu
    và khẳng định tính tích cực trong việc đề cập đến hạnh phúc con người: “Tiểu
    thuyết đã không ngần ngại miêu tả sắc dục, tình yêu nhục thể là một lĩnh vực
    rất riêng của mỗi cá nhân. Miêu tả những con người tự nhiên, khai thác yếu tố
    tích cực của con người tự nhiên cũng là một khía cạnh nhân bản của văn học
    ( { } Hai nhà của Lê Lựu)” [96, tr.231]. Nguyễn Trường Lịch khẳng định
    thành công của Lê Lựu trong tiểu thuyết Thời xa vắng ở việc khai thác những
    xung đột của trái tim con người: “ Có thể khẳng định nét đổi mới ở Thời xa
    vắng là tác giả không hướng ngòi bút mình mô tả các sự kiện lịch sử xã hội
    bên ngoài theo thời gian tự sự chốn chiến trường máu lửa như một số tác
    phẩm cùng thời và cả trước đó mà đi sâu khai thác những xung đột đầy kịch
    tính của trái tim con người trong bối cảnh giã từ chiến tranh về hậu phương
    thời hòa bình”.
    Từ những bài nghiên cứu về tiểu thuyết Lê Lựu đã mở ra cho người
    viết hứng thú tìm hiểu vấn đề này. Học tập, kế thừa những bài viết có liên
    quan đến sáng tác của Lê Lựu, chúng tôi muốn đi sâu vào tìm hiểu nghệ thuật
    trần thuật trong tiểu thuyết của ông và phát triển nó thành bài nghiên cứu khoa
    học trong luận văn này.

    4. Phương pháp nghiên cứu:

    4.1 Phương pháp hệ thống:

    Một trong những phương pháp bao trùm mà thi pháp học rất quan tâm là
    phương pháp hệ thống. Vì vậy trong luận văn, chúng tôi sử dụng phương pháp
    nghiên cứu này. Khi áp dụng phương pháp này vào nghiên cứu nghệ thuật trần thuật
    trong tiểu thuyết Lê Lựu yêu cầu phải đặt từng yếu tố của nghệ thuật trần thuật trong
    tiểu thuyết của ông vào hệ thống nghệ thuật trần thuật nói chung, trong tiến trình
    chung của văn học dân tộc; phân tích những mối quan hệ giữa các yếu tố với nhau
    đồng thời đặt nó vào trong giai đoạn đổi mới văn học và trên tiến tình phát triển của
    thể loại tự sự của văn học dân tộc.

    4.2 Phương pháp phân tích :

    Trong quá trình thực hiện luận văn chúng tôi có sử dụng một số
    dẫn chứng để minh họa cho lập luận của mình. Do đó, phương pháp phân tích
    được vận dụng để trình bày cặn kẽ vấn đề hoặc bình giá các vấn đề cụ thể
    trong luận văn.

    4.3 Phương pháp thống kê:

    Trong chừng mực nhất định của quá trình nghiên cứu, chúng tôi
    sử dụng phương pháp thống kê xem trong mỗi yếu tố nghệ thuật tầng số xuất
    hiện của những hiện tượng nào là cao, hiện tượng nào là thấp và nó có báo
    hiệu điều gì không.

    5. Đóng góp của luận văn:

    Khi nghiên cứu văn xuôi nghệ thuật, vấn đđề đđược người nghiên cứu
    quan tâm nhiều chính là nghệ thuật trần thuật. Đó chính là một trong các yếu
    tố đđem đđến sự thành công cho nhà văn trong quá trình chuyển tải tư tưởng,
    quan đđểm của mình. Vì vậy, khi nghiên cứu sáng tác của Lê Lựu chúng tôi
    đặc biệt quan tâm đến nghệ thuật trần thuật của ông đđặc biệt ở mảng tiểu
    thuyết vì theo chúng tôi tiểu thuyết là “vùng đất” thể hiện rõ nhất phong cách
    của nhà văn. Tiểu thuyết là thể loại “sinh sau đđẻ muộn” trong qúa trình sáng
    tạo nghệ thuật của ông nhưng nó lại có ý nghĩa nhất định trên con đđường
    đđổi mới tiểu thuyết của dân tộc. Khảo sát tiểu thuyết của ông ở góc độ thi
    pháp, cụ thể là ở nghệ thuật trần thuật chúng tôi không có tham vọng chỉ ra
    đđược tất cả đặc điểm nghệ thuật trong sáng tác của nhà văn, chỉ mong có thể
    góp phần khẳng định sự thành công nhất định của nhà văn trong quá trình
    miệt mài lao động sáng tạo nghệ thuật, thấy được diện mạo riêng của Lê Lựu
    trong tiến trình sáng tác nói chung và trong quá trình đổi mới tiểu thuyết nói
    riêng của văn học nước nhà.

    6. Kết cấu của luận văn:

    Ngoài phần dẫn nhập và kết luận, luận văn gồm ba chương:
    Chương 1: Người trần thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu
    Chương2: Kết cấu lời văn trần thuật
    Chương3: Giọng điệu trần thuật
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...