Chuyên Đề Nghệ thuật tạo hình nhiếp ảnh

Thảo luận trong 'Khảo Cổ Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Đề tài: Nghệ thuật tạo hình nhiếp ảnh

    NGHỆ THUẬT TẠO H̀NH NHIẾP ẢNH

    CHƯƠNG I: TẠO H̀NH NGHỆ THUẬT
    I. Một số khái niệm và thuật ngữ1.1. Nghệ thuật, khái niệm về nghệ thuậtNghệ thuật theo nghĩa rộng là để chỉ những hoạt động của con người đă đạt đến tŕnh độ điêu luyện, khéo léo, tinh xảo.
    Ví dụ: Người ta cĩ thể nĩi: “Một cú sút bĩng rất nghệ thuật”, “Một cách bày biện rất nghệ thuật” . Như vậy, trong nghĩa này nghệt thuật đồng nghĩa với một tài nghệ nào đĩ của con người.
    Nghệ thuật với nghĩa thứ hai, hẹp hơn - dùng để chỉ một loại hoạt động của con người nhằm sáng tạo ra những sản phẩm vừa cĩ ư nghĩa thực dụng, vừa cĩ khả năng làm đẹp cho đời, nĩ đem lại những xúc cảm thẩm mỹ nhất định. Đĩ là cơng việc sáng tạo của những người làm đồ thủ cơng mỹ nghệ, cơng việc của người thiết kế thời trang . Họ được coi là những “nghệ sỹ” sáng tác theo nguyên tắc của cái đẹp.
    Trong thẩm mỹ học và lư luận văn học, cụm từ nghệ thuật được dùng để chỉ một hoạt động sáng tạo mang tính đặc thù. Đây là một lĩnh vực rất đa dạng, được biểu hiện qua nhiều loại h́nh nghệ thuật khác nhau như Hội hoạ, Đồ hoạ, Điêu khắc, Nghệ thuật sân khấu, Nghệ thuật múa, Điện ảnh, Âm nhạc v.v . Đĩ cũng là nghĩa hẹp nhất của cụm từ nghệ thuật.
    1.2. Mỹ thuậtMỹ thuật là cụm từ dùng để chỉ những loại h́nh nghệ thuật cĩ quan hệ đến sự thụ cảm bằng mắt, và sự tạo thành các h́nh tượng lấy từ thế giới vật chất bên ngoài để đưa lên mặt phẳng gỗ, giấy, vải, trên tường . hoặc trong một mơi trường khơng gian nào đấy như trong nhà, ngoài trời.
    Bàn đến ngơn ngữ mỹ thuật, người ta thường quan tâm đến các yếu tố: Đường nét, màu sắc, h́nh khối, sự sắp xếp bố cục, nhịp điệu Mỗi loại h́nh đĩ đều cĩ cách biểu hiện khác nhau - tuỳ thuộc vào đặc trưng ngơn ngữ của mỗi loại h́nh đĩ.
    Ví dụ: Hội hoạ, đồ hoạ, điêu khắc .
    1.2.1. Hội hoạ
    Hội hoạ là loại h́nh nghệ thuật đặc trưng bởi sự biểu hiện khơng gian trên bề mặt. Đĩ là một khơng gian ảo, chỉ cĩ thể cảm nhận được bằng thị giác. Nĩi đến hội hoạ là phải nĩi đến tính khơng gian. Mặt khác, mỗi vật thể tồn tại trong khơng gian đều cĩ một h́nh dạng, màu sắc nhất định. Ánh sáng giúp ta nhận ra h́nh dáng, kích thước và màu sắc của chúng. Như vậy, một đặc trưng nữa của hội hoạ đĩ là tính tạo h́nh trực tiếp bằng các yếu tố ngơn ngữ h́nh khối, màu sắc, đường nét . H́nh và màu là hai yếu tố cơ bản trong hội hoạ. Hội hoạ là một trong những loại h́nh nghệ thuật phổ biến nhất.
    1.2.2. Đồ họa
    Cũng như hội hoạ, đồ hoạ sử dụng đường nét, chấm, vạch làm ngơn ngữ chính ngơn ngữ chủ yếu và cơ bản để thể hiện ư tưởng.
    “Nét” trong đồ hoạ khơng hoàn toàn là nét vẽ mà cĩ khi là những nhát khắc, những nét vạch chầm to nhỏ, nơng sâu, mau thưa, . để dựng lên h́nh tượng. Đặc trưng ngơn ngữ của đồ hoạ cịn là những mảng màu mang sắc thái riêng. Mảng trong đồ hoạ cĩ khi do đường nét bao quanh tạo thành, cĩ khi do tập hợp nhiều chấm vạch, nhiều nét tạo nên. Mảng tạo cho h́nh tượng vững chăi, tạo độ đậm nhạt, khả năng diễn tả nơng sâu, khả năng tạo khối trên tác phẩm. Và trong nhiều h́nh tượng, mảng kết hợp với đường nét tạo ra “tiếng nĩi” h́nh thức cho tác phẩm. Màu sắc cĩ tác dụng làm tiếng nĩi mạnh mẽ ở một số thể loại: đồ hoạ giá vẽ, đồ hoạ saác báo. Trong tranh áp phích hay tranh cổ động, yếu tố h́nh hoạ, màu sắc và chữ viết là những yếu tố hết sức quan trọng. Nếu yêu cầu về h́nh hoạ là điển h́nh, dứt khoát, khoẻ khoắn, th́ màu sắc phải rơ ràng, mạnh mẽ, trong sáng và gợi cảm.
    1.2.3. Điêu khắc
    Điêu khắc là loại h́nh nghệ thuật sử dụng các chất liệu như gỗ, đá, đồng, đất, thạch cao . để tạo nên tác phẩm nghệ thuật. Nĩ tồn tại và chiếm chỗ trong khơng gian thực bằng cách tạc, đục, gị, nặn.
    Cũng là một loại h́nh nghệ thuật tạo h́nh, điêu khắc cĩ chung kênh ngơn ngữ như nhiều bộ mơn nghệ thuật tạo h́nh khác. Đĩ là h́nh khối, đường nét, màu sắc . nhưng do đặc trưng riêng biệt của điêu khắc nên các yếu tố này chỉ được khái thác ở những gĩc độ khác với hội hoạ và đồ hoạ (khối lồi, khối lơm, khối cứng, khối mềm, khối đĩng, khối mở, khối tĩnh, khối động .). Mỗi cách sáng tạo khối đưa lại cảm giác khác nhau: Khối lơm, khối mềm, khối mở gây cảm giác động và ngược lại, khối lồi, khối cứng và khối đĩng gây cảm giác tĩnh.
    Trong điêu khắc, khối h́nh là cĩ thực, nĩ tồn tại trong khơng gian ba chiều: ta hoàn toàn cĩ thể cảm nhận nĩ bằng súc giác, cĩ thể đi xung quanh và nhận ra sự biến động phong phú của nĩ qua mỗi hướng nh́n. Đây cũng là đặc trưng cơ bản nhất của điêu khắc.
    1.3. Khái niệm về tạo h́nh1.3.1. Tạo h́nh nghệ thuật (nĩi chung)
    Ngay từ thế kỷ XVIII, con người đă t́m ra các phương pháp dùng màu sắc đậm nhạt, sáng tối hoặc bằng đường nét kết hợp với màu sắc để diễn tả khơng gian ba chiều, khơng gian h́nh khối của đối tượng vật thể. Ngay trong các lĩnh vực khoa học tự nhiên như toán học, muốn biểu hiện một vật thể trên mặt phẳng, người ta cũng thường dùng các phép chiếu, tức t́m cách in vật thể đĩ lên mặt phẳng bằng những h́nh chiếu của nĩ.
    Như vậy, về thực chất, đĩ cũng là phương pháp tạo dựng lại h́nh ảnh khi được xác định trước thơng số kỹ thuật làm điều kiện.
    Trên gĩc độ nghệ thuật, phối cảnh ước lệ khơng phải là một ứng dụng h́nh học đơn thuần, cũng khơng phải là một h́nh thức diễn đạt một cách thơ sơ khơng gian của nghệ thuật cổ, mà là, sự thể hiện cách nh́n, cách nghĩ riêng của tác giả trước sự vật, hiện tượng diễn ra trong đời sống xă hội. Nếu trong cách nh́n thơng thường, các h́nh ảnh trước mắt biểu hiện mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể ở một điểm và một thời gian nhất định th́ mối quan hệ đĩ trong bối cảnh ước lệ được đặt trong những điều kiện khơng gian và thời gian rộng răi hơn.
    Do tính chất ước lệ, khung cảnh trong tác phẩm khơng hiện ra như thực tế. Muốn cĩ sự đồng nhất trong h́nh thức thể hiện khi các h́nh tượng nghệ thuật mang tính ước lệ, th́ đối tượng thể hiện phải mang tính cách điều hoà.
    Trong các loại h́nh nghệ thuật nĩi chung, mỗi loại h́nh đều cĩ ngơn ngữ riêng và phương pháp xây dựng h́nh tượng riêng. Tuy vậy, nh́n một cách bao quát, việc xây dựng h́nh tượng trong các ngành hội hoạ, đồ hoạ, điêu khắc cũng như trong các lĩnh vực văn hoá nghệ thuật khác đều cĩ một điểm chung, đĩ là tính “cách điệu” và tính “ước lệ”.
    H́nh tượng trong tác phẩm, ư tưởng thể hiện của tác giả khi muốn mơ phỏng về hiện thực được thể hiện bằng phương pháp phân tích, tổng hợp từ các h́nh mẫu trong cuộc sống để xây dựng nên một điển h́nh hoàn chỉnh. Ở đây, người nghệ sỹ khơng nhất thiết phải trực tiếp với đối tượng, sự kiện mà thơng qua con đường tư duy gián tiếp để tạo dựng tác phẩm. Bằng tư duy sáng tạo, các tác giả tự khái quát hoá hiện thực một cách nh́n, một quan điểm nhất định.
    Như vậy, tạo h́nh nghệ thuật về thực chất là xây dựng các h́nh tượng nghệ thuật mang tính điển h́nh cao. Những h́nh tượng nghệ thuật ấy là bức tranh vừa cụ thể, vừa khái quát về hiện thực, được xây dựng bằng phương pháp hư cấu và cĩ ư nghĩa mỹ học. Nĩi cách khác h́nh tượng nghệ thuật là đặc trưng cơ bản của nghệ thuật. H́nh tượng nghệ thuật là kết quả nhận thức thực tiễn của người nghệ sỹ, người sáng tạo ra các tác phẩm nghệ thuật.
    1.3.2. Tạo h́nh nhiếp ảnh
    Chúng ta đă biết, các ngành nghệ thuật đều dùng h́nh tượng để phản ánh hiện thực. Nĩi cách khác, h́nh tượng nghệ thuật chính là những “h́nh ảnh”, những “bức tranh” được chọn lọc từ hiện thực cuộc sống cĩ tính khái quát điển h́nh, gợi cảm xúc thẩm mỹ cho người xem. Ở đĩ, các nhà sáng tạo nghệ thuật đều thơng qua những tác phẩm của ḿnh để khắc hoạ lại hiện thực cuộc sống, sinh hoạt của một tầng lớp người, một chế độ xă hội nhất định. Dù mỗi loại h́nh nghệ thuật đều cĩ tiếng nĩi riêng, nhưng giữa chúng vẫn cĩ điểm giống nhau là các tác giả đều cĩ thể hư cấu, mơ phỏng hoặc thêm bớt chi tiết. Nhưng tạo h́nh nhiếp ảnh th́ hoàn toàn khác, người phĩng viên, nghệ sỹ nhiếp ảnh khơng thể cĩ được tác phẩm nếu khơng trực tiếp quan sát, chứng kiến sự kiện hiện tượng. Nĩi cách khác nhiếp ảnh khơng thể tạo h́nh bằng cách gĩp nhặt, tập hợp lại các tính cách, những thuộc tính riêng lẻ của các sự vật, hiện tượng để xây dựng thành một chỉnh thể “bức tranh” mang tính khái quát, mà nhiếp ảnh phải tạo h́nh từ chính cuộc sống thực, vạn vật thực đang diễn ra trước mắt tác giả, và những con người cụ thể, sự việc cụ thể, xảy ra trong những hoàn cảnh khơng gian, thời gian xác định, bằng phương pháp chọn lựa từ những khía cạnh bản chất, những đặc trưng điển h́nh, những hoạt động tiêu biểu trong khoảnh khắc chân thực nhất của đối tượng sự kiện.
    Ví dụ: Để ca ngợi thành tích một đơn vị, một cá nhân nào đĩ, sau khi đă xác định rơ chủ đề cần phản ánh, người phĩng viên cần lựa chọn h́nh ảnh đưa lên báo là h́nh ảnh ǵ, ai là người cần giới thiệu, chụp vào “pha” hoạt động nào của sự kiện, thời điểm bấm máy ra sao “để lột tả” đúng bản chất, đúng đặc trưng của cơng việc? . V́ thế, người phĩng viên phải thường xuyên theo dơi, bám sát đối tượng để ghi h́nh.
    Tuy nhiên, để cĩ được những h́nh ảnh sinh động, người làm báo cần tránh cả hai khuynh hướng “chủ nghĩa tự nhiên” và “chủ nghĩa h́nh thức”. Chủ nghĩa tự nhiên là thấy ǵ chụp nấy, khơng phân biệt đâu là hiện tượng, đâu là bản chất, đâu là những đặc điểm thứ yếu, đâu là đặc trưng cơ bản, đồng thời khơng tơn trọng các quy luật tạo h́nh, khơng chọn lựa trong khi bấm máy. Cịn chủ nghĩa h́nh thức nghĩa là xây dựng “h́nh tượng” chỉ chú ư đến vẻ đẹp bề ngoài mà khơng quan tâm đến các yêu cầu về nội dung, hoặc đi t́m những khía cạnh kỳ lạ qua hiện tượng. Để h́nh ảnh được chau chuốt, nuột nà, người chụp sẵn sàng áp đặt ư tưởng riêng, can thiệp quá sâu vào đối tượng cần thể hiện . Cả hai cách làm trên h́nh ảnh đều kém sinh động, thiếu sức thuyết phục.
    Từ những phân tích trên cĩ thể kết luận:
    Tạo h́nh nhiếp ảnh là sự vận dụng tổng hợp các yếu tố h́nh hoạ trong tự nhiên như ánh sáng, màu sắc đường nét, nhịp điệu, gĩc độ, bố cục, độ nét . nhằm ghi h́nh đối tượng một cách nhanh nhạy nhất, bản chất nhất, chân thực nhất thơng qua sự cảm thụ trực tiếp của tác giả.
    1.4. Mối liên hệ giữa hội hoạ đồ hoạ, điêu khắc và nhiếp ảnhCùng là người bạn đồng hành trong làng nghệ thuật tạo h́nh, nhưng xét trên phương diện nào đĩ th́ nhiếp ảnh cĩ nhiều ưu thế so với hội hoạ, đồ hoạ điêu khắc, đặc biệt ở tính chân thật về tài liệu. Đây chính là điều khiến người xem tin tưởng vào những ǵ mà bức ảnh mang lại. Trong một số trường hợp cĩ những bức ảnh người nghệ sĩ cĩ thể bố trí, sắp đặt khơng đúng với thực tế nhưng vẫn cĩ thể làm cho người xem tin là cĩ thật. Chẳng hạn “Nối sáng”, “Biển kết hoa” . Cĩ nghĩa là v́ lư do nào đĩ, người nghệ sỹ khơng thoả măn với những cái mà anh ta nh́n thấy, anh ta sẵn sàng tổ chức, sắp xếp lại theo trí tưởng tượng ḿnh, mặc dù sự tưởng tượng đĩ xa thực tế, nhưng bức ảnh vẫn gây ấn tượng chứ khơng cĩ dấu hiệu nào chứng tỏ là phi lư, phi nghệ thuật.
    Việc “khắc phục” tính hiện thực tài liệu trong nhiếp ảnh để trở thành nghệ thuật là một điều hết sức khĩ khăn. Nghệ sỹ nào vượt qua được tính tài liệu hiện thực thuần tuư của ảnh để trở thành tác phẩm nghệ thuật, đĩ mới chính là giá trị đích thực của nghệ thuật nhiếp ảnh.
    Xét về bản chất th́ cái mạnh nhất và là điều cơ bản nhất làm cho nghệ thuật nhiếp ảnh khác với hội hoạ, đồ hoạ và điêu khắc là sự phản ánh hiện thực mang tính tài liệu nghệ thuật. Đây cũng chính là điều đầu tiên và cơ bản làm cho nghệ thuật nhiếp ảnh cĩ vị trí xứng đáng trong đội ngũ của ngành nghệ thuật tạo h́nh. Trong đội ngũ này, nhiếp ảnh chiếm lấy khoảng trống trong giai đoạn đầu của tiến tŕnh lịch sử văn học nghệ thuật. Bởi lẽ, ư định tạo h́nh cộng với sự tái hiện thế giới khách quan vừa chính xác về tài liệu vừa mang tính nghệ thuật, mà điều này khơng thể thực hiện đối với các ngành tạo h́nh hội hoạ, đồ hoạ, điêu khắc . V́ vậy, nếu hội hoạ, điêu khắc đi theo trường phái tả thực một cách trung thành tuyệt đối sẽ rơi vào chủ nghĩa tự nhiên hay “chủ nghĩa nhiếp ảnh” trong hội hoạ.
    Thẩm mỹ học khẳng định rằng, nghệ thuật tạo h́nh hội hoạ, điêu khắc khơng đặt ra cho ḿnh nhiệm vụ tái hiện thực tế khách quan vừa đạt tính tài liệu, vừa đạt tính nghệ thuật. Bởi hội hoạ, điêu khắc khơng thể cùng một lúc giải quyết được hai nhiệm vụ vừa nghệ thuật vừa hiện thực, kết cục nĩ sẽ làm hỏng tác phẩm. Sự bay bổng của trí tượng tượng và sự mong muốn khái quát hoá h́nh tượng hoàn toàn khơng thể dung hoà với việc ghi chép trung thành cái cụ thể, cái ngẫu nhiên. Nghệ thuật nhiếp ảnh phát triển mở ra cho các ngành nghệ thuật tạo h́nh phương hướng giải quyết nhiệm vụ này: Nhiệm vụ phản ánh thực tế khách quan vừa cĩ tính nghệ thuật vừa mang tính tài liệu, mà điều đối với hội hoạ, điêu khắc là khơng thể thực hiện được.
    Nghệ thuật nhiếp ảnh tồn tại được và cĩ vị trí xứng đáng trong đại gia đ́nh nghệ thuật tạo h́nh chính là v́ nĩ hoàn toàn xuất sắc “trong sự nghiệp” kết hợp giữa tính nghệ thuật và tính tài liệu hiện thực.
    Trong sáng tác ảnh nghệ thuật, một số nghệ sĩ đă dùng những biện pháp kỹ thuật, kỹ xảo để tạo ra những bức ảnh giống tranh khắc gỗ như ảnh phân sắc độ, ảnh nổi hoặc ảnh bán âm . làm mất đi cơ sở hiện thực tài liệu của bức ảnh. Những bức ảnh như vậy dù sao cũng khơng thể loại ra khỏi nghệ thuật nhiếp ảnh hoặc đối lập với nghệ thuật nhiếp ảnh. Bởi dưới một phương diện nào đĩ nhiếp ảnh nghệ thuật chấp nhận các thư pháp, kỹ xảo, miễn là nĩ khơng làm mất đi bản chất vốn cĩ của nghệ thuật nhiếp ảnh là tạo h́nh nhanh, tạo h́nh trực tiếp.
    Qua những phân tích trên, chúng ta cĩ thể khẳng định: nhiếp ảnh tham gia đội ngũ nghệ thuật tạo h́nh đă làm cho đội ngũ này trở nên phong phú đầy đủ, chặt chẽ và bổ sung thế mạnh cho nhau.
    Cũng giống như hội hoạ, nghệ thuật nhiếp ảnh cĩ thể được hiểu là “nghệ thuật nh́n”, là cách nh́n thế giới xung quanh ta một cách sáng tạo và độc đáo. Đĩ là cách hướng con người tới cái nh́n thẩm mỹ của tâm hồn. Nghệ thuật nhiếp ảnh là nghệ thuật của sự xúc cảm trong khoảnh khắc. Chúng ta khơng thể t́m cách giữ lại một sự kiện, sự việc, hiện tượng đang chuyển động mănh liệt nhưng nhiếp ảnh th́ cĩ thể nĩ giúp ta giữ lại những cảm xúc tràn đầy của sự sống - những khoảnh khắc bất tử.
    II. Đặc trưng của tạo h́nh nhiếp ảnhĐặc trưng là những nét tương đồng khác biệt giữa nhiếp ảnh với các ngành nghệ thuật tạo h́nh khác. Về cơ bản, chúng ta sẽ xem xét mấy điểm dưới đây:
    2.1. Nhiếp ảnh tạo h́nh xác thực, trực tiếpXác thực là đối tượng đang tồn tại “bằng xương, bằng thịt mà mắt ta cĩ thể nh́n thấy, nĩ tác động trực tiếp vào trí năo con người. Trong các lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật, về cơ bản, người nghệ sỹ khơng nhất thiết phải cĩ mặt để chứng kiến đối tượng, sự kiện, mà họ hoàn toàn cĩ thể tư duy tưởng tượng để tái tạo lại hiện thực và xây dựng nên “bức tranh” khái quát về hiện thực đĩ. Hay cho dù, người nghệ sỹ cĩ đứng trước đối tượng th́ khi tác nghiệp, họ vẫn chĩ thể “biến đổi” màu sắc, sắp xếp vị trí, thêm bớt chi tiết theo ư thích, miễn sao tác phẩm của họ tạo được cảm xúc và đạt hiệu quả nhất . Với nhiếp ảnh th́ khác, sự thật mà người cầm máy ghi lại là sự thật “một trăm phần trăm”, khơng thêm bớt. V́ ảnh chính là sự “sao chép”, nên khi tái hiện lại sự vật, nhà nhiếp ảnh phải cĩ mặt tại hiện trường, trong khoảng thời gian, khơng gian được xác định. Ở đây, họ tập trung quan sát cặn kẽ từng chi tiết, từng diễn biến của cuộc sống, đặc biệt là những biểu hiện về tư tưởng, t́nh cảm qua từng nhân vật, từ đĩ đánh giá phân tích, lựa chọn thời khắc đặc trưng nhất, nổi bật nhất để bấm máy. Hơn nữa nhà báo, nghệ sỹ nhiếp ảnh cũng khơng thể di chuyển các thành phần của đối tượng, bắt chúng tập trung lại trong thị trường của ống kính máy ảnh. Trường hợp nếu muốn thay đổi, nhà nhiếp ảnh chỉ cĩ thể bằng cách tự xê dịch vị trí đứng, gĩc chụp . cho đến khi đối tượng “lọt vào” điểm nh́n thích hợp trong khuơn h́nh. Và, khi nhà nhiếp ảnh ghi lại cái đang hiện hữu trước mắt họ, th́ họ cũng khơng thể loại bỏ ngay những chi tiết cĩ cản trở đến bố cục của bức ảnh. Ngược lại, với hội hoạ - ngành cĩ nhiều nét tương đồng với nhiếp ảnh - th́ chức năng ghi nhớ, tưởng tượng lại là một ưu thế. Do vậy, người hoạ sỹ khơng bị lệ thuộc vào đối tượng cĩ đang tồn tại trước mắt họ hay khơng? Ví dụ như vẽ cảnh hoàng hơn, b́nh minh, một chậu hoa hay một gĩc cắt nào đĩ chẳng hạn. Thậm trí xa hơn nữa, họ cĩ thể tái hiện lại sự kiện đă xảy ra trong qúa khứ, hay mơ phỏng những t́nh huống sẽ diễn tiến trong tương lai, một cách rất dễ dàng.
    Nếu đem so sánh nhiếp ảnh với văn học và các ngành nghệ thuật khác chúng ta sẽ thấy rất rơ: Bằng ngơn ngữ, hệ thống âm thanh được kết hợp một cách cĩ quy luật, th́ văn học và âm nhạc gián tiếp gợi lên trong người đọc, người nghe những liên tưởng cĩ h́nh tượng. Nhà văn, nhà soạn nhạc dùng trí tưởng tượng để h́nh thành một loại “h́nh tượng” nghệ thuật cho tác phẩm. Người đọc, người nghe đến lượt ḿnh lại dùng trí tưởng tượng để tiếp thu những h́nh tượng nghệ thuật đĩ.
    Như vậy, trong khi văn học dùng ngơn ngữ viết âm nhạc dùng âm thanh, điêu khắc dùng h́nh khối, hội hoạ dùng màu sắc th́ nhiếp ảnh lại dùng ánh sáng làm phương tiện và chất liệu tạo h́nh cơ bản. Khơng cĩ ánh sáng th́ khơng cĩ nhiếp ảnh là vậy.
    Tĩm lại, các nhà văn, nhà thơ, hoạ sỹ . muốn sáng tác về một đề tài, chủ đề nào đĩ, họ cĩ thể nghe qua người khác kể lại, tường thuật lại, từ đĩ gợi cảm xúc để người nghệ sỹ h́nh thành tác phẩm của ḿnh. Thế nhưng, cũng vấn đề ấy, sự việc ấy, người làm báo, nghệ sỹ nhiếp ảnh khơng thể h́nh thành được tác phẩm - dù là tồi nhất - nếu khơng cĩ mặt tại hiện trường, tiếp xúc với đội tượng sự kiện.
    2.2. Nhiếp ảnh tạo h́nh trong một thời điểmNhư trên đă đề cập, các ngành hội hoạ, điêu khắc . quá tŕnh sáng tạo tác phẩm khơng phụ thuộc vào thời gian, khơng gian nhất định, đĩ là đặc trưng riêng của mỗi loại h́nh th́ chất lượng nghệ thuật cũng như hồn cốt của một tác phẩm ảnh lại hoàn toàn ngược lại. Chính cái giây phút bấm máy - dù rất ngắn ngủi ấy quyết định thời khắc hội tụ tất cả những ǵ mà tác giả muốn gửi gắm qua ống kính. Nĩi như vậy cũng cĩ nghĩa là, trong các lĩnh vực hoạt động nghệ thuật - trực tiếp là nghệ thuật tạo h́nh, người nghệ sỹ muốn cho ra đời một tác phẩm, chí ít họ cũng phải cần khoảng thời gian vật chất khá dài mới đáp ứng yêu cầu nhất định, thậm trí cĩ những tác phẩm phải làm đi làm lại nhiều lần và mất hàng tháng, hằng năm mới hoàn thành (Nụ cười mê hồn của Neonadvanci chẳng hạn). Thế nhưng, đối với nhiếp ảnh, khả năng tạo h́nh nhanh, tạo h́nh trong một thời điểm, thực sự là một thế mạnh tuyệt đối. Đặc biệt, trong thời gian đại khoa học kỹ thuật, khoa học cơng nghệ phát triển, khi mà các nhà khoa học đă sáng chế ra những loại máy ảnh cĩ tốc độ cửa chập nhanh tới một phần một vài ngh́n giây; phim ảnh bộ thẻ nhớ của máy ảnh KTS cĩ độ nhạy rất cao; th́ chỉ cần một khoảnh khắc cực ngắn nhiếp ảnh cĩ thể ghi lại một sự kiện trọng đại, một minh chứng sống của lịch sử.
    V́, nhiếp ảnh cĩ thế mạnh là tạo h́nh anh, tạo h́nh trong một thời điểm, nên các nhà lư luận, các nghệ sỹ sáng tác cũng như những ai quư trọng bộ mơn nghệ thuật này đă gọi nĩ bằng cái tên rất h́nh ảnh và khái quát - nghệ thuật “ngưng đọng thời gian”.
    (Nội dung này sẽ được tŕnh bày kỹ ở phần giây phút bấm máy).
    2.3. Nhiếp ảnh tạo h́nh mang tính biên bản, tính tài liệuNgày nay, khi truyền h́nh đă phát triển mạnh mẽ bằng việc thơng tin những h́nh ảnh chuyển động, truyền h́nh cĩ sức hấp dẫn lớn đối với người xem. Song dù truyền h́nh cĩ phát triển đến đâu, nhiếp ảnh vẫn là loại h́nh cĩ thế mạnh nhất định trong việc truyền tải thơng tin với những h́nh ảnh chân thực, sinh động, cĩ sức hấp dẫn bạn đọc. Chính cái giây phút làm “ngưng đọng cuộc sống” là đặc điểm và thế mạnh khơng ǵ so sánh được của nhiếp ảnh. Với khả năng đĩ, nhiếp ảnh cĩ thể thực hiện tốt chức năng thơng tin và tư liệu của báo chí.
    Tính tư liệu của ảnh được xem xét trên hai khía cạnh: Về mặt kỹ thuật, cơ sở của tính tư liệu chính là tính chất phản ánh h́nh ảnh cụ thể, trực tiếp và tạo h́nh trong một thời điểm. Về mặt nội dung thơng tin th́ tài liệu chính là h́nh ảnh lịch sử, chân thực và sống động. Ở khía cạnh này, tài liệu được hiểu là khả năng lưu giữ thơng tin cĩ ư nghĩa xă hội rộng răi, cĩ giá trị truyền thống, giá trị xă hội cao. Sự chính xác về tạo h́nh tới từng chi tiết của ảnh mà các ngành nghệ thuật khác khĩ đạt tới, được coi là cơ sở để độc giả tin vào tính chân thật và xác thực của ảnh.
    Thường th́, một tài liệu ghi chép chính xác chân thực một hoạt động của thực tiễn tốt đă mang một ư nghĩa xă hội nhất định. Nhưng để cĩ một bức ảnh cĩ giá trị tài liệu, nhà nhiếp ảnh khơng chỉ đi vào khai thác những vấn đề cĩ ư nghĩa xă hội sâu sắc mà cịn phải thể hiện nĩ sao cho cĩ sức cảm hoá người xem. Lịch sử đă qua đi th́ khơng bao giờ lập lại. Sự ghi nhận trung thực lịch sử ấy, bản thân nĩ đă là một tài liệu quư. Nhưng, nhà nhiếp ảnh biết lựa chọn khoảnh khắc cĩ ư nghĩa sâu sắc nhất th́ giá trị của bức ảnh sẽ tăng lên rất nhiều. Giá trị tài liệu của ảnh đạt được chính là nhớ ở vấn đề xă hội được đặt ra từ sư ghi chép h́nh ảnh.
    Ư nghĩa to lớn, của tài liệu nhiếp ảnh cịn ở chỗ nhiếp ảnh khơng phản ánh được hiện thực quá khứ. Nĩ chỉ cĩ thể phản ánh được hiện thực đang xảy ra, đang tiếp diễn. Nhà nhiếp ảnh chỉ cĩ sống trong cuộc sống thực, sống trong lịng các sự kiện đang xảy ra, đang tiếp diễn th́ mới cĩ những bức ảnh cĩ giá trị tài liệu cao. Bộ ảnh về cuộc đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, hay nạn đĩi năm Ất Dậu (1945) chỉ cĩ được khi các nhà nhiếp ảnh Đinh Đăng Định, Nguyễn Bá Khoản, Vơ An Ninh sống ở thời đại ấy, chứng kiến các sự kiện ấy.
    Nhờ tính chất nguyên bản, tính xác thực mà mỗi tác phẩm ảnh ra đời được xă hội thừa nhận, đều cĩ sức thuyết phục lớn, độ tin cậy cao, măi măi là kho tư liệu vơ giá của nhân loại.
    Như vậy, nhà nhiếp ảnh là chứng nhận của lịch sử những người chép sử bằng h́nh ảnh.
    2.4. Nhiếp ảnh thể hiện khơng gian ba chiều trên mặt phẳngMọi vật thể trong vũ trụ, dù lớn hay nhỏ đến đâu cũng đều tồn tại dưới dạng h́nh khối nhất định. Bởi thế, nếu như trong các ngành kiến trúc, điêu khắc người ta cĩ thể dùng các phương tiện kỹ thuật hiện đại để đo lường và tính toán khá chính xác thể tích của hính tượng vật thể trong tác phẩm, th́ đĩ là bởi các h́nh tượng nghệ thuật ấy cũng được tạo dựng thành những h́nh khối cĩ đủ ba chiều của nĩ - chiều cao, chiều ngang, chiều dày hay cịn gọi là chiều sâu.
    Khác với các ngành nghệ thuật tạo h́nh nĩi trên, “h́nh tượng” trong tác phẩm ảnh khơng thể cân, đo đối tượng với đủ ba chiều như bản thân sự vật cần phản ánh, mà do những đặc trưng của nĩ, nhiếp ảnh hoàn toàn thể hiện rơ khơng gian ba chiều - h́nh thù lập thể của đối tượng, sự vật trên một mặt phẳng của phim và giấy ảnh. Nĩi cách khác, nghệ thuật ảnh cĩ khả năng tạo cảm giác chiều sâu của cảnh trường trong tác phẩm.
    Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, khơng phải tất cả các bức ảnh đều cĩ khả năng biểu hiện khơng gian h́nh khối, chiều sâu của cảnh vật như nhau, mà nĩ cịn tuỳ thuộc vào khả năng vận dụng các yếu tố kỹ thuật tạo h́nh của mỗi tác giả. Nắm vững đặc trưng này sẽ giúp các nhà nhiếp ảnh sáng tạo được những tác phẩm ảnh sinh động, đạt hiệu quả thẩm mỹ cao.
    2.5. Nhiếp ảnh mang đặc trưng “ngơn ngữ đại chúng”Trong văn học nghệ thuật khơng phải bất cứ ai cũng cĩ thể hiểu được, nắm bắt được nội dung mà tác phẩm cần chuyển tải ngay từ lần tiếp xúc đầu tiên. Hay nĩi cách khác là, nĩ khơng thể đáp ứng được ngay nhu cầu của mọi độc giả, mọi dân tộc, quốc gia trên hành tinh; đĩ là v́ sự bất đồng về ngơn ngữ nĩi và viết .
    Song, nhiếp ảnh ra đời, ngành nghệ thuật non trẻ này đă mở ra cho con người những chân trời mới. Tạo h́nh nhiếp ảnh, với ngơn ngữ trực tiếp và trực giác là h́nh ảnh - thơng tin bằng thị giác, sau nữa mới đến chú thích. Bởi vậy, nĩ đă trở thành một thứ ngơn ngữ chung “ngơn ngữ quốc tế” đúng như Giáo sư Bozoban Todorow (Bungari) đă khẳng định: “Nhiếp ảnh sử dụng một thứ ngơn ngữ mà mọi người đều hiểu. Khơng như sự thơng tin bằng lời nĩi, ảnh cĩ thể vượt qua mọi hàng rào về chủng tộc và ngơn ngữ, qua đĩ mở ra một cánh cửa mới để đi đến trí thức”.


    CHƯƠNG II:
    ÁNH SÁNG TRONG TẠO H̀NH NHIẾP ẢNH
    Đặc trưng bao trùm và nổi bật của nghệ thuật nhiếp ảnh là ghi thực - trực tiếp và tạo h́nh trong một thời điểm. Đĩ cũng là ưu thế tuyệt đối của nhiếp ảnh mà các ngành nghệ thuật tạo h́nh khác khơng thể cĩ được. Thơng qua bức ảnh, người xem khơng chỉ thấy được thực tế đă xảy ra như thế nào một cách trực quan, sinh động nhất mà cịn thấy cả cảm xúc nghệ thuật của tác giả; thấy được ư đồ, tư tưởng của người chụp trong việc phản ánh thực tế đĩ.
    Sau khi đă xác định đề tài, xây dựng được chủ đề và lựa chọn đối tượng cần phản ánh, việc tiếp theo vơ cùng quan trọng, thậm trí gĩp phần quyết định, tạo nên giá trị của tác phẩm là việc vận dụng tổng hợp các yếu tố sẵn cĩ trong tự nhiên để tạo h́nh tác phẩm đạt hiệu quả. Yếu tố “hồn cốt” đĩ là ánh sáng.
    1. Bản chất sĩng của ánh sángÁnh sáng là một dạng năng lượng, giống như nhiệt, âm thanh hay điện là dịng các hạt proton (quang tử) lan truyền theo sĩng điện từ với vận tốc 300.000 km/giây.
    Ánh sáng phát ra từ nguồn sáng như những gợn sĩng, chỉ khác là nĩ toả ra cả ba chiều trong khơng gian chứ khơng chỉ chuyển động trên một mặt phẳng duy nhất. Ánh sáng chuyển động theo h́nh sin, khoảng cách từ đỉnh nọ đến đỉnh kia được gọi là một bước sĩng. Đơn vị bước sĩng tính bằng nanomet (viết tắt là n m). Một Nanomét bằng một phần triệu milimét.
    Bước sĩng của ánh sáng chênh lệch từ 400 - 700 nanomét. Nhỏ hơn 400 nanomét là tia tử ngoại (untraviolet) và lớn hơn 700 nanomét là tia hồng ngoại (infrared).
    Khoa học đă chứng minh mắt thường của chúng ta khơng nh́n thấy tia hồng ngoại và tử ngoại, nhưng nĩ lại cĩ thể tác động đến hoá chất của phim ảnh. Những bước sĩng khác nhau trong ánh sáng tạo ra những màu sắc khác nhau dưới con mắt của chúng ta. Bước sĩng ngắn nhất của ánh sáng tạo thành màu tím (Violét); cịn bước sĩng dài nhất của ánh sáng tạo thành màu đỏ sẫm. Các màu sắc cịn lại nằm giữa hai màu này và tất cả màu sắc tập hợp thành một dải quang phổ.
    Khi mọi bước sĩng của ánh sáng được hoà trộn với nhau theo một cường độ đủ mạnh sẽ xuất hiện ánh sáng trắng. Khi những bước sĩng hoà trộn với cường độ yếu hơn sẽ cĩ màu xám. Khi cường độ của các bước sĩng quá yếu đến mức mắt ta khơng thấy được, hoặc khi ánh sáng chiếu vào một bề mặt và bị bề mặt ấy hấp thụ hoàn toàn sẽ thấy màu đen. Như vậy, trong quang học đen và trắng khơng phải là màu mà chỉ là biểu thị của một ánh sáng mạnh hoặc hoàn toàn khơng cĩ ánh sáng mà thơi.
    2. Nguồn sáng, các loại ánh sáng, tính chất chiếu sáng của ánh sáng2.1. Nguồn sángTrong nhiếp ảnh, người ta thường sử dụng hai nguồn và ba loại ánh sáng cơ bản: Ánh sáng tự nhiên, ánh sáng nhân tạo, ánh sáng trực tiếp, ánh sáng tản và ánh sáng phản chiếu (ánh sáng hắt lại).
    2.1.1. Nguồn sáng tự nhiên và nhân tạo
    Nguồn sáng tự nhiên và nguồn sáng nhân tạo đều cĩ thể được xem xét dưới ba dạng: Ánh sáng trực tiếp, ánh sáng tâm và ánh sáng phản chiếu.
    Nguồn sáng tự nhiên là nguồn sáng được phát ra từ mặt trời, mặt trăng và các tia sáng phản xạ từ bầu trời, bầu khí quyển đến các đối tượng vật thể.
    Nguồn sáng nhân tạo là tất cả các dạng ánh sáng khác ngoài ánh sáng tự nhiên. Đĩ là ánh sáng phát ra từ các loại đèn (đèn điện, đèn dầu), từ ngọn nến, bếp lửa . Ánh sáng nhân tạo là nguồn sáng do con người tạo ra.
    Ánh sáng nhân tạo phụ thuộc vào loại cơng cụ chiếu sáng và cách “đánh” đèn của người chụp. Chẳng hạn, sắc nĩng của đèn dây tĩc cơng suất vừa tạo ra cảm giác ấm áp, chặt hẹp hơn so với ánh sáng trắng của các loại đèn đốt bằng hơi thuỷ ngân, cơng suất mạnh.
    Những bức ảnh chụp bằng đèn dây tĩc thường nhuốm màu vàng nhạt, cĩ thể khử màu này bằng hai cách: Sử dụng kính lọc màu sắc lạnh hoặc sử dụng hệ thống cân bằng trắng tự động của máy ảnh kỹ thuật số. Đối với các máy ảnh chụp phim, cĩ thể dùng loại phim chuyên dụng - gọi là phim tungsten để băo hoà bớt thành phần đơn sắc vàng và đỏ trong ảnh. Loại phim này cũng được dùng để loại bớt tơng màu vàng đối với những trường hợp chụp trong nhà hay tại các Studio.
    Đèn huỳnh quang hay cịn gọi là đèn cao áp dùng hơi thuỷ ngân dọc đường tạo ra ánh sáng khuyếch tán cĩ màu hơi xanh nhợt trên ảnh. Sử dụng kính lọc màu huỳnh quang hay kính lọc sắc ấm sẽ loại bỏ được thành phần màu này.
    Nguồn sáng tự nhiên và nguồn sáng nhân tạo đều cĩ thể được xem xét dưới ba dạng: Ánh sáng trực tiếp, ánh sáng tản và ánh sáng phản chiếu.
    Ánh sáng trực tiếp:
    Ánh sáng trực tiếp được phát ra từ những nguồn sáng tập trung, nĩ cĩ hướng chiếu sáng nhất định. Ví dụ:
    Ánh sáng mặt trời cĩ cường độ chiếu sáng mạnh. Tuy nhiên, cường độ ánh sáng thay đổi tuỳ theo thời tiết trong ngày và các mùa trong năm. Thường th́ vào khoảng từ 11 giờ đến 15 giờ, cường độ ánh sáng mạnh hơn các giờ khác trong ngày. Ánh sáng trực tiếp cịn cĩ thể là ánh sáng đèn khơng cĩ vật tản xạ, khơng sử dụng kính mờ.
    Ánh sáng trực tiếp tạo hiệu quả ảnh tương phản cao, gây cảm giác mạnh mẽ, lạc quan, cĩ khi dữ dội tuỳ vào hướng ánh sáng chiếu tới đối tượng cần chụp.
    Ánh sáng tản:
    Ánh sáng tản là ánh sáng khơng cĩ định hướng. Chẳng hạn bầu trời đầy mây, trời râm mát, hoặc ánh đèn chiếu qua kính mờ, kính tản sáng .
    Nh́n chung, ánh sáng tán cĩ cường độ yếu, độ sáng tối trên đối tượng, vật thể ít chênh lệch, sự tương phản thấp. Chụp ảnh dưới ánh sáng tản màu sắc của đối tượng và cảnh vật trong ảnh chủ yếu phụ thuộc vào màu sắc vốn cĩ đối tượng vật thể đĩ, hoặc của cảnh quan ngoài hiện trường; Tuy nhiên, nĩ khơng thật chính xác.
    Ánh sảng tản cho h́nh ảnh khơng cĩ bĩng; cảm giác lập thế và cảm giác chiều sâu ảnh trường kém.
    Ánh sáng phản chiếu:
    Ánh sáng phản chiếu thực chất là ánh sáng từ một nguồn sáng nào đĩ (mặt trời, đèn cao áp .) chiếu tới các vật thể cĩ khả năng phát sáng mạnh (tấm gương, cửa kính, mặt nước .) và từ đĩ phản xạ vào đối tượng chụp. Nhờ nguồn sáng này mà người cầm máy ghi lại được đầy đủ và chính xác h́nh ảnh của các vật thể. Tuy nhiên, trong rất nhiều trường hợp, do người cầm máy mất cảnh giác hoặc thiếu hiểu biết, mà chính ánh sáng phản chiếu lại làm hỏng bức ảnh.
    Ánh sáng phản chiếu cịn được gọi là ánh sáng hắt lại. Ánh sáng phản chiếu thường là ánh sáng phân kỳ; v́ đa số trường hợp sau khi bị phản chiếu, ánh sáng dội lại, toả ra theo nhiều phương hướng.
    Về nguyên tắc, ánh sáng phản xạ từ các vật trước vật đĩn nhận trực tiếp nguồn sáng từ mặt trời bao giờ cũng cĩ hướng đi nhất định (cĩ định hướng), cịn ánh sáng phản chiếu ở những vật sau - vật đĩn nhận các tia phản xạ của phản xạ - thường khơng cĩ hướng đi nhất định.
    Ví dụ: Ánh sáng mặt trời chiếu xuống mặt hồ, hay một bức tường kính và từ đĩ nĩ phản xạ vào vật A, ta gọi là sự phản xạ ở vật trước. Đây là nguồn sáng cĩ định hướng. Cịn ánh sáng từ vật A tiếp tục phản xạ tới vật B, vật C, ta gọi là sự phản xạ ở vật sau. Nguồn sáng này khơng cĩ hướng đi nhất định.

    [TABLE="align: left"]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [TD][​IMG][/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]








    Ánh sáng phản chiếu nĩi chung thường phá bĩng đổ hoặc làm nhẹ đi bĩng đổ; nĩ thích hợp với chụp ảnh chân dung, tĩnh vật, chụp tranh ảnh, chụp cận đối tượng.
    Ánh sáng phản chiếu luơn mang theo ít nhiều màu sắc của bề mặt phản chiếu. Ví dụ phản chiếu từ thảm cỏ xanh, đối tượng chụp sẽ mang ít nhiều màu xanh, từ bức tường gạch cĩ màu đỏ, ảnh sẽ mang ít nhiều màu đỏ v.v . Do đĩ, nếu ta chụp hắt đèn flash lên trần nhà cĩ màu sợi ǵ, th́ ảnh cũng sẽ bị nhuốm ít nhiều màu đĩ. Cho dù, chúng ta khơng cố t́nh chụp hắt đèn flash đi nữa, th́ khi bấm máy trong phịng nhỏ, màu sắc của những vật dụng xung quanh cũng tạo áp sắc trên ảnh .
    Trên thực tế, chúng ta nh́n được vật thể trong bĩng râm chủ yếu cũng là do nguồn sáng phản chiếu từ các vật phát sáng xung quanh tác động tới, chỉ cĩ một phần nhỏ do ánh sáng từ bầu trời chiếu xuống mà thơi.
    Bằng mắt thường, đơi khi chúng ta khĩ nhận biết một cách rành rọt nguồn sáng này. Song, đối với ống kính máy ảnh th́ nĩ khá lợi hại trong việc tạo h́nh đối tượng. Bởi vậy, để tránh hiện tượng “nhiều sáng” hay “loạn sáng” trong khi chụp, đặc biệt là ở những nơi cĩ nhiều vật thể phát xạ, người cầm máy cần phải chú ư đến việc lựa chọn gĩc độ, khoảng cách chụp và những điểm sáng rọi ngược vào ống kính.
    2.2. Các loại tia sáng và đặc tính của nĩXuất phát từ nguồn sáng, ánh sáng toả ra bằng các tia sáng, mỗi tia sáng lại cĩ đặc tính và một ứng dụng đặc biệt trong nhiếp ảnh.
    2.2.1. Tia sáng song song
    Tia sáng mặt trời là một ví dụ điển h́nh về tia sáng song song.
     
Đang tải...