Luận Văn Nghệ thuật kể chuyện trong phim Rừng Nauy của Trần Anh Hùng và tiểu thuyết cùng tên của Haruki Murak

Thảo luận trong 'Văn Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    PHẦN MỞ ĐẦU

    1. Lý do chọn đề tài
    Không thể phủ nhận những thành quả mà điện ảnh mang lại trong hành trình khám phá và phản ánh đời sống của con người, mang những câu chuyện kỳ thú trên thế giới phiêu du ngay trước mắt người xem. Có thể nói, điện ảnh là một loại hình nghệ thuật trẻ tuổi nhất và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các loại hình nghệ thuật gần gũi hình thành nên một loại hình nghệ thuật tổng hợp. Trong tương quan đó, điện ảnh chịu ảnh hưởng hết sức mạnh mẽ của văn học ngay từ khi mới ra đời. Giữa hai loại hình này có mối quan hệ hết sức bền vững. Điện ảnh lấy cảm hứng, chất liệu từ mạch nguồn phong phú của kho tàng văn học, tiếp thu kinh nghiệm nghệ thuật và các thủ pháp biểu hiện của văn học và ngược lại “điện ảnh cũng làm thay đổi tiểu thuyết”. Như vậy trong quá trình kế thừa những tinh hoa nghệ thuật của văn học cũng như các loại hình khác, điện ảnh cũng “dần dần tích luỹ được những thủ pháp nghệ thuật của mình, sáng tạo ra ngôn ngữ riêng của mình” [13; 39]. Xét về phương thức biểu hiện, văn học là ngôn ngữ của ngôn từ và điện ảnh là ngôn ngữ của hình ảnh đã dẫn đến nghệ thuật kể chuyện của hai loại hình khác nhau.
    Khi tiếp nhận một bộ phim hay một cuốn tiểu thuyết, điểm hấp dẫn không chỉ là những yếu tố cấu thành tác phẩm mang tính chất đặc thù của thể loại mà còn có một yếu tố tiên quyết là cách thức mà nhà văn và đạo diễn kể câu chuyện đó như thế nào. Vấn đề nghệ thuật kể chuyện đóng vai trò quan trọng trong tác phẩm văn học và tác phẩm điện ảnh vì đó là con đường đi đến với công chúng thưởng thức nghệ thuật. Cùng một chủ đề đề tài, cùng một câu chuyện nhưng ở mỗi loại hình nghệ thuật lại được hiện hình với một hình thức khác nhau bởi ngôn ngữ đặc trưng riêng. Nghiên cứu về cách kể hay chính là nghệ thuật kể chuyện trong điện ảnh so với tiểu thuyết là một hướng đi rất mới mẻ và đầy thú vị. Cách tiếp xúc này giúp ta có cách thâu tóm và chạm tay gần nhất để bóc tách những đặc trưng của điện ảnh so với văn học. Ngày nay, vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh ngày càng trở nên quen thuộc. Các tác phẩm văn học được ưa thích đã trở thành nguồn cảm hứng vô tận đối với các bộ phim. Câu chuyện trong tác phẩm văn học khi được chuyển thể lên phim dù muốn hay không cũng được đạo diễn thể hiện theo trận đồ kể chuyện của điện ảnh.
    Tiểu thuyết Rừng Nauy của Haruki Murakami được xuất bản năm 1987 thực sự là một hiện tượng lạ với bốn triệu bản sách và theo thống kê cứ bảy người Nhật thì có một người đọc. Cuốn sách nhanh chóng trở thành bestseller ở bất cứ nơi đâu xuất hiện, trở thành cuốn sách gối đầu giường của giới trẻ Nhật Bản nói riêng, giới trẻ thế giới nói chung và đã đưa tác giả của nó lên thành một trong những nhà văn hàng đầu của Nhật Bản. Glasgow Hirald đã nhận xét “Một câu chuyện xúc động đến ngạt thở Không nghi ngờ gì Murakami là một trong những tiểu thuyết gia tinh tế nhất thế giới”. Đây là một câu chuyện “khắc hoạ những khát vọng bất thành của tuổi thanh xuân, những tư tưởng quá khích, sự lựa chọn cái chết và quá trình trưởng thành - một thứ kinh nghiệm mà ai cũng phải trải qua trong đời. Nó vừa mạnh mẽ, vừa tinh tế, giàu tình gợi dục và cả chất thơ”. Chính vì thế, khi đạo diễn Trần Anh Hùng chuyển thể câu chuyện lên phim Rừng Nauy đã gây một làn sóng dư luận lớn như đã từng có khi tiểu thuyết ra đời. Mọi người tò mò về sự hiện hình bằng hình ảnh của câu chuyện được thể hiện như thế nào và đã chuyển tải được tinh thần của câu chuyện hay chưa?
    Để bộ phim Rừng Nauy được đưa lên màn ảnh là những nỗ lực không mệt mỏi của đạo diễn Trần Anh Hùng trong suốt bốn năm ròng thuyết phục nhà văn Haruki Murakami cùng sự đóng góp của cả ekip làm phim. Câu chuyện trong tiểu thuyết Rừng Nauy của Haruki Murakami được chuyển thể lên màn ảnh với một ngôn ngữ hoàn toàn mới, ngôn ngữ của hình ảnh. Nghiên cứu nghệ thuật kể chuyện trong phim Rừng Nauy của Trần Anh Hùng và tiểu thuyết cùng tên của Haruki Murakami là một hướng đi mang lại cho chúng ta những hiểu biết thú vị. Lựa chọn đề tài này, người viết muốn đóng góp một phần nho nhỏ trong việc lý giải ngôn ngữ của điện ảnh so với ngôn ngữ của văn học và cách Trần Anh Hùng dùng để chuyển thể tiểu thuyết Rừng Nauy của Haruki Murakami lên màn ảnh.
    2. Lịch sử vấn đề
    Ra đời muộn nhưng điện ảnh đã có những tiếp thu khá thú vị của các ngành nghệ thuật khác hình thành cho mình những đặc trưng riêng. Xét về nghệ thuật kể chuyện hay còn gọi là nghệ thuật tự sự, nghệ thuật trần thuật là khái niệm được sử dụng khá rộng rãi trong lĩnh vực nghiên cứu của văn học và điện ảnh. Đây được coi là ngành nghiên cứu then chốt và rất được chú trọng trong việc phân tích và phê bình phim trong tương quan với các văn học.
    Nghiên cứu nghệ thuật kể chuyện hay chính là nghiên cứu cấu trúc tự sự học trong văn học được giới nghiên cứu và phê bình đặc biệt quan tâm. Ra đời từ năm 1969, thuật ngữ “tự sự học” là danh xưng do nhà nghiên cứu Tezvetan Todorov đưa ra khởi đầu cho một ngành nghệ thuật nghiên cứu tự sự. Đây là sự tiếp nối cho công trình nghiên cứu Thi pháp học của Aristote. Trong công trình này đã chỉ ra cấu trúc cơ bản của một văn bản tự sự.
    Ở Việt Nam, nhà nghiên cứu Trần Đình Sử có công trình nghiên cứu Tự sự học và Lại Nguyên Ân có công trình Về việc mở ra môn trần thuật học trong ngành nghiên cứu văn học ở Việt Nam là những bước đầu ghi dấu ấn nghiên cứu tự sự trong văn học.
    Đến với điện ảnh, nghiên cứu nghệ thuật kể chuyện được rất nhiều học giả quan tâm và đề cập đến trong khá nhiều các công trình nghiên cứu chuyên sâu về điện ảnh.
    Trong công trình Nghệ thuật điện ảnh (Film art) của David Bordwell và Kristin Thomspon đã dành một phân cuốn sách cho việc nghiên cứu tự sự trong phim. Toàn bộ chương ba của cuốn sách với nhan đề Phim tự sự như một hệ thống hình thức đã tập trung nghiên cứu phương thức thể hiện của điện ảnh trong việc kể chuyện theo hướng tự sự học.
    Tác giả Warren Buckland với công trình nghiên cứu Tìm hiểu phim (Film studies) người dịch Phạm Ninh Giang đã dành toàn bộ chương hai để viết về Cấu trúc phim: tự sự và kể chuyện. Tự sự theo cách lý giải của nhà nghiên cứu, đó là một loạt sự kiện có liên quan đến nhau theo chuỗi nguyên nhân - kết quả.
    Nhà nghiên cứu Manfred Jahn và công trình nghiên cứu Nhập môn phân tích phim theo trần thuật học (A Guide Narratological Film Analysis, Poem, anh Prose: A Guide to the Theory of Literary Genres) đã có những nghiên cứu cụ thể về phương thức thể hiện kết cấu, trần thuật và điểm nhìn trong điện ảnh. Đặc biệt, công trình đã những ví dụ phim và phân tích nó dưới góc nhìn tự sự học giúp ta có cách nhận diện câu chuyện được kể như thế nào trên phim.
    Nhà nghiên cứu Timothy Corrigan trong cuốn sách Hướng dẫn viết về phim (A Short Guide to Writing about Film - người dịch Đặng Nam Thắng, Phạm Xuân Thạch hiệu đính) đã giành gần như toàn bộ chương ba Những thuật ngữ và chủ đề phân tích phim và viết phê bình phim, đề cập đến các khái niệm tự sự, nhân vật và điểm nhìn như một sự quan tâm đáng chú ý trong công việc nghiên cứu điện ảnh. Trong chương này nhà nghiên cứu đã đi sâu vào khai thác những đặc điểm rất xác thực về dàn cảnh, dựng phim, âm thanh, ánh sáng, trong cách kể chuyện của điện ảnh mang lại cho chúng ta cái nhìn cụ thể về điện ảnh.
    Ở Việt Nam, chúng tôi được tiếp xúc với công trình Những vấn đề lý luận kịch bản phim, tác gải Đoàn Minh Tuấn, giảng viên khoa Điện ảnh trường Đại học sân khấu điện ảnh cũng trình bày một vấn đề về Cấu trúc tự sự và những vấn đề liên quan.
    Từ đây có thể thấy, vấn đề nghiên cứu tự sự học hay chính nghệ thuật kể chuyện trong văn học và điện ảnh được quan tâm đặc biệt. Các công trình dù lớn hay nhỏ đều góp phần làm cụ thể hơn những lý thuyết về nghệ thuật kể chuyện.
    Đặc biệt, nghiên cứu nghệ thuật kể chuyện trong mối tương quan giữa văn học và điện ảnh cũng được quan tâm trong các công trình nghiên cứu từ sách xuất bản đến các bài đăng tạp chí hay khoá luận. Các công trình Bàn về cải biên tiểu thuyết thành phim của Hạ Diễn và Dương Thiên Hỷ, Bàn về viết truyện phim đạo diễn phim và diễn viên điện ảnh của V.Pu-đốp-kin, Đốp-gien-cô và điện ảnh của I.Vaisphen, Phê bình phim Sta-pa-ep của N.Alê- bê-đep, là những nghiên cứu sâu sắc trong mối quan hệ giữa văn hcọ và điện ảnh. Bên cạnh đó, còn có các bài đăng trên các tạp chí đưa ra những nghiên cứu đầy hữu ích về lý thuyết trần thuật học giữa văn học và điện ảnh:
    - Bài viết So sánh mĩ học tiểu thuyết và mĩ học điện ảnh của Magnin đăng trên Điện ảnh Thế giới số 3.1983.
    - Bài viết Lí luận trần thuật học đương đại và trần thuật học điện ảnh của Lý Hiển Kiệt đăng trên tạp chí Đại học sư phạm Hoa Trung, số 6.1999.
    - Bài viết Tính đối thoại của kết cấu trần thuật điện ảnh của La Nhạc đăng trên Điện ảnh đương đại số 2.2005
    - Bài viết Mối quan hệ giữa trần thuật học văn học và trần thuật học điện ảnh đăng trên http://vanhocquenha.vn.
    Và còn nhiều bài viết khác.
    Trong các trường đại học cũng có các công trình khoá luận nghiên cứu về tác phẩm văn học và phim truyện chuyển thể trên một số phương diện của nghệ thuật tự sự:
    - Mật mã điện ảnh Vinci - Từ tiểu thuyết đến điện ảnh (so sánh tác phẩm văn học và tác phẩm điện ảnh) của Hà Thị Phượng (2007).
    - Kết cấu, người kể chuyện và không gian trong phim Rashomon của đạo diễn Kurosawa dưới góc nhìn trần thuật học của Đoàn Thị Bích Thuỳ (2008).
    - Bộ phim Hồi ức của một Geisha dưới góc nhìn tự sự học của Hoàng Thi Nga (2010).
    - Tự sự và cấu trúc tự sự trong phim Vertigo của Alfred Hitchcock (nhìn từ góc độ cấu trúc ba hồi, quan hệ nhân quả, người kể chuyện và không - thời gian) của Thế Thị Vân (2010).
    - Tiếp cận liên văn bản văn học và điện ảnh qua tác phẩm Người Mỹ trầm lặng, công trình nghiên cứu khoa học.
    - Tiểu thuyết Bến không chồng và bộ phim cùng tên thông qua vấn đề liên văn bản, công trình nghiên cứu khoa học của Lê Thị Tuân (2011).
    - Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự) (2010) của Đỗ Thị Ngọc Điệp.
    Và nhiều công trình khác nữa đã cho thấy việc nghiên cứu tác phẩm điện ảnh trong tương quan với văn học được quan tâm rất mạnh mẽ.
    Tuy nhiên, nghiên cứu phim Rừng Nauy của đạo diễn Trần Anh Hùng trong quan hệ với tiểu thuyết cùng tên của Haruki Murakami thì đến nay chưa có công trình nào. Bởi bộ phim Rừng Nauy vừa mới ra mắt chưa được bao lâu nên chỉ có những bài bình luận trên các báo và tạp chí, trên các trang web. Với đề tài này, người viết muốn đưa ra một đóng góp nhỏ trong việc tìm hiểu tiểu thuyết và bộ phim chuyển thể theo hướng tiếp cận nghệ thuật kể chuyện.

    Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
    Đối tượng nghiên cứu của khoá luận là tác phẩm điện ảnh Rừng Nauy của đạo diễn Trần Anh Hùng và tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Haruki Murakami. Trong đó, người viết tập trung ở phạm vi nghiên cứu những yếu tố trong nghệ thuật kể chuyện: cốt truyện, kết cấu, người kể chuyện, điểm nhìn, nhân vật, không gian thời gian, ngôn ngữ kể chuyện.
    3. Phương pháp nghiên cứu
    Các phương pháp chính được sử dụng trong khoá luận:
    - Phương pháp phân tích tổng hợp.
    - Phương pháp so sánh, đối chiếu.
    - Phương pháp khảo sát, thống kê.
    - Phương pháp liên ngành.
    4. Mục đích nghiên cứu và ý nghĩa của khoá luận
    Vận dụng lý thuyết trần thuật học trong văn học và trần thuật học trong điện ảnh cùng việc khảo sát cuốn tiểu thuyết và tác phẩm điện ảnh chuyển thể, người viết muốn phân tích nghệ thuật kể chuyện của mỗi loại hình từ một câu chuyện. Từ đó, làm sáng tỏ được cách mà nhà văn và đạo diễn thể hiện câu chuyện như thế nào bằng chính những đặc trưng của loại hình thông qua các yếu tố: cốt truyện, kết cấu, người kể chuyện, điểm nhìn, nhân vật, không gian, ngôn ngữ kể chuyện. Thực hiện được như vậy, khoá luận sẽ góp một phần nhỏ trong việc lý giải lợi thế kể chuyện của mỗi loại hình điện ảnh và văn học.
    5. Cấu trúc khoá luận
    Khoá luận với đề tài “Nghệ thuật kể chuyện trong phim Rừng Nauy của Trần Anh Hùng và tiểu thuyết cùng tên của Haruki Murakami”, ngoài phần mở đầu và kết luận, khoá luận gồm có các 4 chương:
    Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn
    Chương II: Cốt truyện và kết cấu
    Chương III: Người kể chuyện, điểm nhìn, nhân vật
    Chương IV: Không gian và ngôn ngữ kể chuyện
    Cuối cùng là Tư liệu tham khảo.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...