Báo Cáo Năng lượng mặt trời ở việt nam: Tiềm năng cho phát triển đô thị bền vững

Thảo luận trong 'Hóa Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    170
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    TÓM TẮT
    Quá trình đô thị hóa, hiện đại hóa nhanh chóng ở Việt Nam đã thúc đẩy sự gia tăng nhu cầu sử dụng năng lượng cho giao thông vận tải, phát triển các ngành công nghiệp, khu vực thương mại dịch vụ công sở và các hộ gia đình. Đặc biệt là sự gia tăng một cách tự nhiên nhu cầu sử dụng các loại năng lượng hiện đại ở các thành phố do quá trình di dân, do yêu cầu cuộc sống tiện nghi ở những nơi người dân có thu nhập cao. Tất cả những yếu tố trên dẫn đến nhu cầu sử dụng năng lượng cuối cùng của Việt Nam tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Năng lượng là một yếu tố cơ bản đồng hành với quá trình phát triển của các siêu đô thị trong tương lai, năng lượng ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển của nền kinh tế, quyết định giá thành sản phẩm và gián tiếp tác động đến môi trường. Do đó để đảm bảo an ninh năng lượng ở Việt Nam nói chung, việc thúc đẩy các giải pháp mới trong sử dụng năng lượng tại các đô thị trong tương lai nói riêng cần được đặt lên hàng đầu.
    Bài báo sẽ thảo luận về phát triển đô thị xanh dưới góc nhìn về lĩnh vực phát triển năng lượng bền vững. Trong khuôn khổ bài báo cũng sẽ chỉ ra các thách thức và chiến lược liên quan đến việc ứng dụng các giải pháp mới về năng lượng trong đô thị nhằm thích nghi và giảm thiểu tác động của biến đổi khi hậu.
    GIỚI THIỆU
    Thách thức lớn nhất trong thời đại của chúng ta là sự biến đổi khí hậu toàn cầu và sự gia tăng dân số. Gia tăng dân số đã liên tục tạo ra sức ép lớn tới tài nguyên thiên nhiên và môi trường trên trái đất do khai thác quá mức các nguồn tài nguyên phuc vụ cho các nhu cầu nhà ở, sản xuất lương thực, thực phẩm, sản xuất công nghiệp v.v . Nó cũng liên tục tạo ra các nguồn thải tập trung vượt quá khả năng tự phân huỷ của môi trường tự nhiên và nhu cầu tiêu thụ năng lượng trong các khu vực đô thị, khu sản xuất nông nghiệp, công nghiệp. Ngoài ra sự chênh lệch về tốc độ phát triển dân số
    100
    giữa các nước công nghiệp hoá và các nước đang phát triển gia tăng, dẫn đến sự nghèo đói ở các nước đang phát triển và sự tiêu phí dư thừa ở các nước công nghiệp hoá. Sự chênh lệch ngày càng tăng giữa đô thị và nông thôn, giữa các nước phát triển công nghiệp và các nước kém phát triển dẫn đến sự di dân ở mọi hình thức. Trên thực tế, sự gia tăng dân số xuất hiện tại các thành phố lớn ở các quốc gia đang phát triển, nơi hầu hết người nghèo đói của thế giới tập trung ở đó. Quá trình đô thị hóa ở Việt Nam gần đây đã diễn ra nhanh chóng, dân số ở khu vực đô thị năm 2008 là 24 triệu người chiếm 27,9% tổng dân số, tăng 3,57% so với năm 2007. Theo định hướng quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị Việt Nam đến năm 2020, quy mô đô thị từ mức 30,4 triệu người và diện tích 2.432km2 năm 2010 sẽ tăng lên 40 triệu người và diện tích 4.600km2 (chiếm 45% dân số và 1,4% diện tích cả nước) vào năm 2020. Quá trình đô thị hóa đã tạo nên sức ép về nhu cầu sử dụng năng lượng cho giao thông vận tải, phát triển các ngành công nghiệp, khu vực thương mại dịch vụ công sở và các hộ gia đình. Đặc biệt là sự gia tăng một cách tự nhiên nhu cầu sử dụng các loại năng lượng hiện đại ở các thành phố do quá trình di dân, do yêu cầu cuộc sống tiện nghi ở những nơi người dân có thu nhập cao. Thiết kế và quy hoạch đô thị theo quan điểm hướng đến đô thị xanh là lối thoát duy nhất cho các đô thị lớn ở Việt Nam hiện nay, đặc biệt là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh nơi quy tụ phần lớn dân di cư từ các vùng nông thôn. Mật độ các công trình xây dựng và các khoảng không gian xanh xen lẫn trong đô thị sẽ là chìa khóa giảm bớt “hiệu ứng đảo nhiệt đô thị”. Ngoài ra, việc thiết kế những đô thị có không gian mở và tập hợp các công trình theo cách thức chỉ cần nguồn năng lượng tối thiểu để chiếu sáng, thông gió, làm mát, làm lạnh cũng làm một giỉa pháp cơ bản đối với điều kiện môi trường nóng và ẩm (nhiệt đới) như ở Việt Nam.
    XU HƯỚNG SỬ DỤNG NĂNG LƯỢNG Ở CÁC ĐÔ THỊ CỦA VIỆT NAM
    Mặc dù hiện nay có sự suy giảm của nền kinh tế thế giới nhưng triển vọng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong trung hạn là khả quan. Nếu GDP của Việt Nam tăng trưởng khoảng 6,9%/năm trong giai đoạn 2009-2018 và mức độ đàn hồi năng lượng sử dụng trên GDP là 1,7 như đã xảy ra trong thập kỷ qua thì nhu cầu năng lượng sẽ tăng khoảng 12,1%/năm, giảm hơn một chút so với thập kỷ trước. Tuy nhiên, với tốc độ tăng trưởng như vậy, nhu cầu năng lượng sẽ tăng gấp ba lần trong khoảng 10 năm với tổng năng lượng tiêu thụ
    101
    cuối cùng vượt quá 100 triệu toe vào năm 2018. Năng lượng sử dụng trong nền kinh tế Việt Nam đã thay đổi cơ bản trong một vài thập kỷ qua với sự chuyển đổi từ một mô hình chủ yếu dựa vào các loại năng lượng truyền thống sang sử dụng hỗn hợp các loại năng lượng khác nhau. Như trình bày trong hình 1, năng lượng thương mại tiêu thụ của Việt Nam đã tăng gấp 7 lần từ một mức độ rất thấp vào năm 1980. Sự gia tăng này chủ yếu là do sự gia tăng tính thông dụng của các loại năng lượng thương mại và điện cho sử dụng tại hộ gia đình, sự phát triển của các phương tiện giao thông và sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp đang trở thành trụ cột của nền kinh tế.
    Năng lượng thương mại(1) đã tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế. Trong giai đoạn 1999-2006, năng lượng thương mại đã tăng ở mức độ trung bình 12,4%/năm trong khi GDP chỉ tăng khoảng 7,2%. Hệ số đàn hồi giữa mức độ tăng trưởng của năng lượng thương mại và GDP ở mức rất cao là 1.7. Cường độ sử dụng năng lượng của Việt Nam đã tăng từ 387 kilograms dầu tương đương (kgoe) trên US$1000 của GDP vào năm 1998 lên
    1 Khái niệm năng lượng thương mại trong báo cáo này chỉ đến than, các sản phẩm dầu mỏ, khí tự nhiên và điện. Các loại nhiên liệu truyên thống như củi không bao gồm trong định nghĩa này do số liệu về mức độ sử dụng và đặc biệt là xu hướng sử dụng rất ít và không đảm bảo mức độ tin tưởng.
    569 kgoe trên US$1000 vào năm 2006, với giá cố định năm 2000. Tiêu thụ năng lượng cuối cùng đã tăng từ 10,8 triệu tấn dầu tương đương (toe) vào năm 1998 lên 27,5 triệu toe vào năm 2006. Loại hình năng lượng thương mại chính sử dụng bởi khách hàng cuối cùng ở Việt Nam là than, sản phẩm dầu mỏ và điện (ngoại trừ một tỉ lệ rất nhỏ sử dụng trong công nghiệp, phần lớn khí tự nhiên của Việt Nam sử dụng cho phát điện chứ không phải khách hàng cuối cùng). Mức độ sử dụng cả ba loại năng lượng trên đều tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng GDP trong giai đoạn 1999-2007. Hình 2 mô tả tăng trưởng của năng lượng tiêu thụ cuối cùng (thương mại) theo loại năng lượng trong giai đoạn 1999-2007. Nếu nhìn vào cơ cấu tiêu thụ năng lượng của Việt Nam theo ngành, ta có thể nhận thấy 84,8% năng lượng của Việt Nam được tiêu thụ bởi các ngành công nghiệp, giao thông và cho dân dụng. Hình 1. Tiêu thụ năng lượng sơ cấp của Việt Nam, 1980 & 2007
    (Nguồn: Ngân hàng thế giới, 2009)
    102
    Nếu nhìn vào cơ cấu tiêu thụ năng lượng của Việt Nam theo ngành, ta có thể nhận thấy 84,8% năng lượng của Việt Nam được tiêu thụ bởi các ngành công nghiệp, giao thông và cho dân dụng.
    Hình 2. Năng lượng thương mại cuối cùng của Việt Nam, 1998-2007
    (Nguồn: WB, 2009)
    Hình 3. Tiêu thụ năng lượng của Việt Nam theo ngành sử dụng năng lượng, 2007
    (Nguồn: WB, 2009)
    103
    Từ hình trên ta thấy nếu xét phân bố tiêu thụ năng lượng của mỗi ngành kinh tế thì bốn ngành sử dụng năng lượng chính của Việt Nam là (a) sử dụng nhiên liệu trong công nghiệp, (b) sử dụng điện trong công nghiệp, (c) sử dụng các sản phẩm dầu mỏ cho giao thông vận tải, (d) sử dụng điện tại khu vực dân dụng các hộ gia đình (hình 3).
    Theo như phân tích của bản chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển nguồn năng lượng mới & tái tạo ở Việt Nam đến năm 2015, tầm nhìn 2025. Tốc độ tăng GDP bình quân của Việt Nam ở các giai đoạn dự báo như sau: 2001-2010: 7,2% - 8,5%; 2011-2020: 7,09% -8,5%; 2021-2030: 6 - 7%. Cơ cấu GDP cũng có sự dịch chuyển theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông lâm nghiệp. Dự báo dân số tăng từ 86 triệu người hiện nay lên 87,77 triệu người năm 2010 và 97,85 triệu người năm 2020. Mức độ đô thị hoá cũng có sự thay đổi, dân số đô thị từ 25% tăng lên 32% năm 2010; 40% năm 2020 và 70,5% năm 2050. Khi đó nhu cầu năng lượng cuối cùng theo các ngành và nhiên liệu đến năm 2025 được thể hiện trong đồ thị dưới đây:
    Hình 4. Kết quả dự báo nhu cầu năng lượng theo các ngành (2000-2025) (Nguồn: RE Master Plan, 2009)
    Tiêu thụ năng lượng thương mại cuối cùng bình quân đầu người đến năm 2025 đạt khoảng 700 – 850 kgOE; Cơ cấu tiêu thụ năng lượng cũng có sự dịch
    104
    chuyển theo hướng tăng tỷ trọng ngành Công nghiệp, giảm tỷ trọng ngành Giao thông vận tải. Dự báo cơ cấu tiêu thụ năm 2025: Công nghiệp 37,7%; Dân dụng 30,2%; Giao thông vận tải 23,2%; Dịch vụ 8% và Nông nghiệp 0,9%. Từ các con số trên ta có thể nhận thấy việc phát triển các nguồn năng lượng tái tạo cung cấp cho khối công nghiệp và dân dụng là vô cùng cần thiết.
    CÁC GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN CÁC ĐÔ THỊ XANH Ở VIỆT NAM
    Năng lượng là một yếu tố cơ bản đồng hành với quá trình phát triển của các đô thị, cách nhanh nhất để ứng phó với vấn đề biến đổi khí hậu toàn cầu là giảm sự phát thải khí nhà kính, thiết kế và quy hoạch đô thị có tính đến các yếu tố sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả hơn và tận dụng các nguồn năng lượng tái tạo. Sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả hơn cũng có nghĩa là phát triển và sử dụng các thiết bị có hiệu suất cao hơn và phù hợp hơn cho các khu đô thị, sử dụng hầu như ánh sáng tự nhiên ban ngày, thoát nước mưa, làm mát và khai thác năng lượng mặt trời - giảm hoặc bỏ nhu cầu sưởi ấm và làm mát nhân tạo.
    Giải pháp sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả
    Giải pháp về mặt thể chế Để thúc đẩy các giải pháp sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, rất cần có sự hỗ trợ của khung pháp lý và các dự án triển khai cụ thể. Trước hết phải nói đến hiện trạng các văn bản pháp quy của Chính phủ nhằm thúc đẩy việc sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả ở Việt Nam:
    - Luật Điện lực của Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam số 28/2004/QH ngày 03 tháng 12 năm 2004.
    - Quyết định số 40/2005/QĐ-BXD ngày 17 tháng 11 năm 2005 của Bộ Xây dựng về việc ban hành QCXDVN09: 2005.
    - Nghị định số 102/2003/NĐ-CP ngày 14 tháng 4 năm 2006 của Thủ Tướng Chính phủ về việc sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
    - Quyết định số 80/2006/QĐ-TTg ngày 14/4/2006 của Thủ Tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình tiết kiệm điện giai đoạn 2006-2010.
    - Nghị định 105/2005/NĐ-CP ngày 17 tháng 8 năm 2005 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Điện lực.
    - Quyết định số 79/2006/QĐ-TTg ngày 14 tháng 4 năm 2006 của Thủ Tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả
    - Thông tư số 08/2006/TT-BCN ngày 16 tháng 11 năm 2006 của Bộ Công nghiệp hướng dẫn trình tự, thủ tục dán
    105
    nhãn tiết kiệm năng lượng đối với các sản phẩm sử dụng năng lượng.
    - Quyết định số 02/2006-BCD Về việc ban hành Quy chế tuyển chọn tổ chức, cá nhân chủ trì thực hiện các Dự án thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
    - Thông tư số 111/2009/TTLT/BTC-BCT về việc hướng dẫn thực hiện tiết kiệm điện trong các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập.
    - Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm
    và hiệu quả được Quốc hội khoá XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 17 tháng 6 năm 2010.
    Bên cạnh đó các cơ quan Chính phủ và các tổ chức quốc tế cũng đã triển khai một số các dự án nhằm thúc đẩy các giải pháp sư dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả hơn. Các dự án đã mang lại các hiệu quả nhất định trong việc nâng cao nhận thức và phát triển thị trường tiết kiệm năng lượng của Việt Nam trong thời gian qua phải kể đến là: Nhà tài trợ Tên dự án Năm thực hiện Cơ quan phối hợp triển khai ADB
    TA: Supporting implementation of the National Energy Efficiency Program
    2008-2010
    MOIT International Copper Association
    ICASEA
    Home appliance survey
    2009
    European Union
    EC
    Switch-ASIA
    1. Mainstreaming EE through Business Innovation Support Vietnam
    2009-2013
    ETC Energy
    2. Establishment of ASEAN Energy Management Scheme
    2010-2014
    ASEAN Center of Energy
    Netherlands, EU, SIDA, UNDP
    Energy Conservation and Efficiency Program for Vietnam
    1995-2001
    MOST
    AFD
    Support to energy sector in Vietnam
    from 2010
    Ideas for future supports
    DANIDA
    TA to VNEEP
    from 2010
    MOIT
    (DCE) Cleaner Production in Industry
    2006-2011
    MOIT
    Finland
    Promotion of Energy Efficiency and Renewable Energy in Vietnam through Capacity Building in Energy Auditing
    2007-2010
    MOIT
    JICA
    1. Study on National Energy Master Plan in Vietnam
    2008-2009
    JPower
    106
    2. Private -Sector Investment Finance Program
    ongoing
    VDB
    3. Support in conducting energy conservation training programs and providing expert assistance in the development of EE&C Law
    N/A
    ECCJ METI Project for Promotion of Energy Efficient Appliances in Vietnam 2007-2008 Jukankyo Research Institute SDC
    SDC/UNIDO
    National clean production program for Vietnam
    1998-2008
    VNCPC
    SDC/UNIDO
    Energy-Efficient Brick Project (EEBP)
    2001-2004
    Entec
    SDC/SECO
    Green Credit Line (GCL)
    2008-2012
    VNCPC / commercial banks United Nations
    UNDP/GEF
    Vietnam: Promoting Energy Coservation In Small and Medium Scale Enterprises (PECSME)
    2006-2010
    MOST
    UNDP/GEF
    Vietnam Energy - Efficient Public Lighting
    2006-2010
    NCST/IMS
    UNDP/GEF
    Barrier removal to the cost - effective development and implementation of energy effiency standards and labeling project
    from 2010
    MOIT
    UNEP/GEF
    Phasing out Incandescent Lamps through Lighting Market Transformation in Vietnam
    2010-2014
    lead INSPONRE (MONRE) in collaboration with MOIT, MOST; Vietnam based IL/ESL producers; and UNEP/DTIE
    UNDP/UNIDO
    Planned UNDP/UNIDO support from 2010
    from 2010
    World Bank
    IDA/SIDA
    Vietnam Demand-Side Management (DSM) and Energy Efficiency phase 1
    1997-1999
    EVN
    WB/GEF
    Vietnam Demand-Side Management (DSM) and Energy Efficiency phase 2
    2000-2010
    MOIT/EVN
    1. Pilot Commercial Energy Efficiency Program (CEEP)
    2004-2009
    ERAV
    2. CFL promotion program
    2004-2007
    EVN
    3. FTL promotion campaign
    2004-2009
    EVN
    3a. Pilot program on Solar Water Heaters
    2008-2009
    MOIT
    3b. Pilot program on Standards and Labeling
    2008-2009
    MOIT
    4. Time of Use Metering Program
    2008-2009
    EVN
    5. Load Research Program
    2008-2009
    EVN
    6. National Energy efficiency Law and VNEEP
    2008-2009
    MOIT
    WB/GEF
    System Efficiency Improvement, Equitization & Renewables Project
    2002-2009
    MOIT/EVN
    IFC
    Energy Efficiency and Cleaner Production Financing program for Vietnam
    from 2010
    107
    Đặc biệt quyết định số 79/2006/QD-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chiến lược quốc gia đối với việc tiết kiệm và sử dụng hiệu quả năng lượng đến năm 2015 như sau:
    1. 2006 – 2010 giảm thiểu năng lượng tiêu thụ từ 3 đến 5% và
    2. 2011 – 2015 giảm thiểu năng lượng tiêu thụ từ 5 đến 8%.
     

    Các file đính kèm:

    • 10-.pdf
      Kích thước:
      617.5 KB
      Xem:
      0
Đang tải...