Luận Văn Năng lực bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân theo pháp luật dân sự Việt Nam

Thảo luận trong 'Luật Học' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 15/4/15.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    1
    MỞ ĐẦU
    1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
    Quyền yêu cầu người khác bồi thường thiệt hại do hành vi sai trái của
    người gây thiệt hại (về tài sản, sức khỏe ) cho bản thân mình là một quyền
    được áp dụng có tần suất lớn nhất trong các quyền về yêu cầu bồi thường thiệt
    hại quy định bởi luật dân sự tại xã hội hiện đại. Tại Nhật, số vụ yêu cầu đòi bồi
    thường thiệt hại do hành vi sai trái (bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
    (BTTHNHĐ)) chiếm 61% trong tổng số vụ việc tranh chấp dân sự. Con số này
    nói lên mức độ quan trọng của quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi sai
    trái trong đời sống dân sự.
    Khi nghiên cứu về hệ thống pháp luật Dân sự Việt Nam Ông John
    Gillespie giáo sư thỉnh giảng của Trường Đại học Luật Deakin - một trong
    những trường Đại học Luật danh tiếng của Úc đã nhận định rằng: “Người dân
    Việt Nam không biết đến quyền yêu cầu nhà sản xuất, nhà cung cấp dịch vụ bồi
    thường thiệt hại cho mình do hành vi sai trái của nhà sản xuất nói riêng và quyền
    yêu cầu người khác bồi thường thiệt hại do hành vi sai trái của người đó nói
    chung” (1) .
    Ở Việt Nam quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi sai trái tuy đã
    được luật hóa tại Bộ luật dân sự, tại chương “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
    ngoài hợp đồng” (từ Điều 604 đến 630 BLDS năm 2005) và một số văn bản
    pháp luật dưới BLDS khác. Tuy nhiên, vấn đề xác định năng lực chủ thể trong
    trách nhiệm BTTHNHĐ luôn luôn đặt ra cho các nhà làm luật, những người
    thừa hành pháp luật cũng như các nhà nghiên cứu luật pháp những vấn đề nan
    giải khi tiếp cận.
    . Xuất phát từ đó tôi chọn đề tài: “Năng lực bồi thường thiệt hại ngoài
    hợp đồng của cá nhân theo pháp luật dân sự Việt Nam” để làm khoá luận tốt
    nghiệp.
    (1) Theo bài: Quyền của cá nhân trong thương mại (dân sự) ở Việt Nam: Phân tích dưới phương pháp so sánh)
    đăng trên tạp chí Pháp luật quốc tế Đại học Stanford (Stanford Journal of International Law) số 30 năm 1994 (30 Stan. J Int’lKho¸ luËn tèt nghiÖp Lª ThÞ HuyÒn
    2
    2. Tình hình nghiên cứu đề tài
    Hiện nay trên các diễn đàn nghiên cứu luật pháp ở nước ta đã xuất hiện
    khá nhiều các bài viết, các công trình nghiên cứu về Trách nhiệm BTTHNHĐ,
    như “những vấn đề cơ bản về trách nhiệm BTTHNHĐ trong Bộ luật dân sự” của
    Tiến sỹ Lê Mai Anh Tuy nhiên, đối với vấn đề về “Năng lực chủ thể của cá
    nhân trong BTTHNHĐ” theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam thì còn
    khá khiêm tốn trong vấn đề nghiên cứu chuyên sâu và có tính khoa học thực tiễn.
    3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu của đề tài
    Đề tài chỉ đi sâu nghiên cứu quy định về trách nhiệm BTTHNHĐ mà cụ
    thể là “năng lực BTTHNHĐ của cá nhân” mà không đi vào nghiên cứu trách
    nhiệm bồi thường theo hợp đồng và năng lực BTTHNHĐ của các chủ thể khác.
    Đề tài hướng tới làm rõ các quy định của pháp luật về năng lực bồi
    thường thiệt hại của cá nhân trong từng trường hợp cụ thể. Trên cơ sở đó đưa ra
    những kiến nghị để hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề này.
    4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
    Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -
    Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Kết hợp giữa quan điểm
    của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử. Quá trình
    nghiên cứu đề tài tác giả đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như:
    Phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp chứng
    minh.
    5. Kết cấu của khóa luận
    Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
    của khóa luận gồm hai chương:
    Chương 1: Khái quát về trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng
    Chương 2: Năng lực bồi thường thiệt hại của cá nhân theo Bộ luật dân sự
    Việt Nam 2005Kho¸ luËn tèt nghiÖp Lª ThÞ HuyÒn
    3
    CHƯƠNG I
    KHÁI QUÁT VỀ TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ NGOÀI HỢP ĐỒNG
    1.1.Khái niệm và các điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự ngoài hợp
    đồng
    1.1.1.Khái niệm trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng
    Xã hội luôn luôn là tổng hoà của các mối quan hệ đa dạng và phức tạp và
    cần đến sự điều chỉnh của pháp luật. Chính từ sự đa dạng và phức tạp của các
    quan hệ xã hội nên yêu cầu pháp luật cũng cần có một cơ chế điều chỉnh đa dạng
    và phù hợp, xuất phát từ đây mà nhiều quan hệ pháp luật đã ra đời trong đó có
    quan hệ về nghĩa vụ dân sự. Trong quan hệ này khi chủ thể tham gia không thực
    hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết kể cả thực hiện không
    đúng nghĩa vụ do pháp luật quy định thì phải gánh chịu về mình những hậu quả
    bất lợi. Hậu quả bất lợi này thể hiện thông qua việc giải quyết “trách nhiệm dân
    sự” giữa người có quyền với người có nghĩa vụ và được thực hiện theo nguyên
    tắc bên có hành vi vi phạm và gây ra thiệt hại sẽ phải bồi thường. Theo T¹p chÝ
    d©n chñ vµ ph¸p luËt cña Bé T­ ph¸p, sè chuyªn ®Ò vÒ Bé luËt d©n sù ViÖt Nam
    2005, t¹i phÇn thuËt ngư ph¸p luËt d©n sù cã ®­a ra kh¸i niÖm vÒ tr¸ch nhiÖm
    d©n sù nh­ sau: “Trách nhiệm dân sự (theo nghĩa rộng) là các biện pháp có tính
    cưỡng chế được áp dụng nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu của một quyền
    dân sự bị vi phạm. Tr¸ch nhiÖm d©n sù (theo nghĩa hẹp) là các biện pháp cưỡng
    chế áp dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp luật gây ra thiệt hại cho
    người khác, người gây ra thiệt hại phải chịu trách nhiệm khắc phục những hậu
    quả xấu xảy ra bằng tài sản của mình”.[tr. 249]
    Các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật phải gánh chịu những hậu
    quả bất lợi, họ phải chịu trách nhiệm dân sự là do chính những hành vi sai trái
    của mình. Hành vi của các chủ thể có thể là vi phạm hợp đồng (không thực hiện,
    thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết) hoặc do hành vi viKho¸ luËn tèt nghiÖp Lª ThÞ HuyÒn
    4
    phạm pháp luật. Như vậy, trách nhiệm dân sự có thể chia thành hai loại đó là
    trách nhiệm dân sự theo hợp đồng và trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng.
    Thực tiễn đời sống hàng ngày của chúng ta xảy ra rất nhiều các thiệt hại
    về tài sản, tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của công dân, tài sản, danh
    dự, uy tín của tổ chức. Nguyên nhân dẫn đến những thiệt hại này rất đa dạng, có
    thể là do tác động của các yếu tự nhiên bên ngoài, tác động bởi hoàn cảnh khách
    quan hay hành vi của con người trong đó phần lớn là do các hành vi trái pháp
    luật của con người mang lại. Trước những hành vi xâm phạm tới các quyền và
    lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức được pháp luật bảo vệ cho nên nhà nước
    cần đề ra những biện pháp để ngăn chặn và khắc phục hậu quả. Điều 71 Hiến
    pháp 1992 của nước ta ghi nhận: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân
    thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm ”. Thể
    chế hoá các quy định về vấn đề này của Hiến pháp BLDS Việt Nam 2005 tại
    Điều 604 đã quy định: “Người nào do lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến tính
    mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp
    khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ
    thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”. Điều này có nghĩa là một người
    nào đó gây thiệt hại cho người khác thì phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
    Khi một người gây thiệt hại cho người khác sẽ làm phát sinh mối quan hệ bồi
    thường thiệt hại giữa họ và người bị thiệt hại. Quan hệ bồi thường thiệt hại này
    phát sinh từ hành vi trái pháp luật của một bên chủ thể nhưng giữa các bên
    không có mối quan hệ hợp đồng hoặc nếu có, thì vi phạm này không phải là vi
    phạm nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng, do đó phát sinh trách nhiệm bồi
    thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Vậy trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
    đồng là trách nhiệm phát sinh giữa các chủ thể mà trước đó không có quan hệ
    hợp đồng hoặc tuy có quan hệ hợp đồng nhưng hành vi vi phạm của người gây
    thiệt hại không thuộc về nghĩa vụ chấp hành hợp đồng đã ký kết.Kho¸ luËn tèt nghiÖp Lª ThÞ HuyÒn
    5
    Như vậy, về cơ bản thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
    phát sinh không phải từ quan hệ hợp đồng nhưng cũng không thể khẳng định
    một cách cứng nhắc rằng trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ
    phát sinh không phải từ hợp đồng. Nếu khẳng định như vậy thì sai lầm, phiến
    diện và thiếu căn cứ, bởi lẽ ta không thể loại bỏ được khả năng nghĩa vụ dân sự
    ngoài hợp đồng phát sinh xuất phát từ quan hệ hợp đồng giữa các bên chủ thể.
    Ngoài ra, quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng còn xuất hiện trong rất
    nhiều trường hợp khác nhau. Ví dụ như quyết định của cơ quan nhà nước có
    thẩm quyền, việc thực hiện công việc không có uỷ quyền, ngay cả hợp đồng dân
    sự vô hiệu hay hành vi pháp lý đơn phương cũng có thể trở thành nguyên nhân
    của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và còn rất nhiều các trường
    hợp khác nữa.
    Qua những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về trách nhiệm bồi
    thường thiệt hại ngoài hợp đồng như sau: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
    ngoài hợp đồng là trách nhiệm dân sự phát sinh giữa các chủ thể mà trước đó
    không có quan hệ hợp đồng hoặc tuy có quan hệ hợp đồng nhưng hành vi của
    người gây thiệt hại không thuộc về nghĩa vụ thi hành hợp đồng đã ký kết giữa
    các bên.
    1.1.2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
    Pháp luật nghiêm cấm các hành vi gây thiệt hại đến tài sản, tính mạng,
    sức khoẻ cho công dân một cách bất hợp pháp. Các quyền và lợi ích hợp pháp
    của công dân luôn được Nhà nước bảo hộ. Điều 74 Hiến pháp1992 của Nhà
    nước CHXHCN Việt Nam quy định: “Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà
    nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân phải được kịp thời
    xử lý nghiêm minh ”. Pháp luật quy định những biện pháp buộc người có hành
    vi vi phạm pháp luật và gây ra thiệt hại phải có trách nhiệm trước những hậu quả
    mà mình gây ra cho người khác, đó là trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Điều
    604 BLDS 2005 quy định: “Người nào do lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm tính
    mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền và lợi ích hợp phápKho¸ luËn tèt nghiÖp Lª ThÞ HuyÒn
    6
    khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ
    thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”. Như vậy, trách nhiệm bồi
    thường chính là hậu quả bất lợi về tài sản mà người có hành vi xâm phạm đến
    tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của người khác phải gánh chịu.
    Tuy nhiên, để đảm bảo cho quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể
    tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự thì việc quy định trách nhiệm bồi thường
    thiệt hại do gây thiệt hại cho người khác không thể xác định một cách tuỳ tiện và
    thiếu căc cứ. Pháp luật dân sự quy định việc giải quyết vấn đề bồi thường thiệt
    hại căn cứ vào các điều kiện nhất định. Điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi
    thường thiệt hại ngoài hợp đồng chính là những yếu tố tạo nên cơ sở cho việc
    xác định trách nhiệm bồi thường. Các điều kiện này phải được xem xét trong
    mối quan hệ biện chứng, thống nhất và đầy đủ.
    Trong Bộ luật dân sự 2005 của nước ta không có một quy định nào quy
    định cụ thể về các điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
    hợp đồng. Tuy nhiên, theo Nghị Quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
    dân tối cao số 01/2004 NQ/- HĐTP ngày 28 tháng 4 năm 2004 hướng dẫn áp
    dụng một số quy định của Bộ luật dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
    thì có bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
    đồng: (1) có thiệt hại xảy ra, (2) hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật, (3)
    có lỗi của người gây thiệt hại, (4) có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và
    hành vi trái pháp luật.
    *Có thiệt hại xảy ra
    Mục đích của việc bồi thường thiệt hại là khôi phục lại, bù đắp lại những
    tổn thất cho người bị thiệt hại cho nên nếu không có thiệt hại thì vấn đề bồi
    thường sẽ không được đặt ra kể cả trong trường hợp các điều kiện khác đã đáp
    ứng đầy đủ. Từ đây có thể thấy thiệt hại là điều kiện tiên quyết, bắt buộc phải có
    của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng để quyết định xem có phát
    sinh trách nhiệm bồi thường hay không.
     
Đang tải...