Luận Văn Nâng cao sức cạnh tranh một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam trong điều kiện hội

Thảo luận trong 'Ngoại Thương' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
    Nước ta là một nước nông nghiệp. Việc nâng cao sức cạnh tranh hàng nông sản
    xuất khẩu (NSXK) không chỉ đáp ứng nhu cầu thiết yếu của nhân dân trong nước,
    giải quyết được nhiều việc làm cho người lao động mà còn góp phần thực hiện
    chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu thay thế nhập khẩu có hiệu quả. Quá trình hội nhập
    kinh tế quốc tế (KTQT) đã và sẽ đem lại nhiều cơ hội, nhưng chúng ta sẽ gặp phải
    những thách thức ngày càng lớn hơn khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức
    của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Đó là do nhiều mặt hàng NSXK của Việt
    Nam còn mang tính đơn điệu, nghèo nàn, chất lượng thấp, chưa đủ sức cạnh tranh
    trên thị trường thế giới. Việc nghiên cứu sức cạnh tranh một số hàng NSXK chủ yếu
    của Việt Nam, chỉ ra được những mặt hàng nào có điểm mạnh và những mặt hàng
    nào có những điểm yếu so với đối thủ cạnh tranh để có những giải pháp phù hợp
    nhằm nâng cao sức cạnh tranh là một việc làm hết sức cần thiết, rất có ý nghĩa cả về
    mặt lý luận và thực tiễn trong điều kiện hội nhập KTQT.
    2. Tình hình nghiên cứu đề tài
    Trong hơn 10 năm trở lại đây đã có nhiều đề tài, dự án của các Bộ, các trường
    Đại học, các Viện nghiên cứu đã nghiên cứu về sức cạnh tranh của hàng nông sản
    nước ta. Trong số đó, trước hết phải kể đến công trình Dự án Hợp tác kỹ thuật
    TCP/VIE/8821 (2000) về “Khả năng cạnh tranh của ngành nông nghiệp Việt Nam: Một
    sự phân tích sơ bộ trong bối cảnh hội nhập ASEAN và AFTA” của Bộ Nông nghiệp và
    Phát triển nông thôn (NN & PTNT) được sự tài trợ của Tổ chức Nông Lương của Liên
    Hiệp Quốc (FAO) [11]. Dự án này bao gồm nhiều báo cáo đề cập đến khả năng cạnh
    tranh của một số mặt hàng nông sản Việt Nam như gạo, đường, hạt điều, thịt lợn, cà phê
    dưới giác độ chi phí sản xuất và tiếp thị, năng suất, kim ngạch xuất khẩu, giá cả. Thời
    gian phân tích của các báo cáo này giới hạn đến năm 1999.
    Đề tài cấp Bộ, mã số 98-98-036 về “Những giải pháp nhằm phát huy có hiệu
    quả lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trong tiến trình hội nhập vào thị trường khu
    vực và thế giới” (2000) của Viện Nghiên cứu Khoa học thị trường giá cả. Đề tài này
    nghiên cứu diễn biến khả năng cạnh tranh của ngành hàng lúa gạo, ngành xi măng
    và ngành mía đường cho đến năm 1999. Các giải pháp đưa ra chủ yếu nhằm phát
    huy có hiệu quả lợi thế cạnh tranh của Việt Nam.
    Đề án ”Chiến lược phát triển nông nghiệp-nông thôn trong công nghiệp hóa,
    hiện đại hóa thời kỳ 2001-2010” (2000) của Bộ NN &PTNT. Đề án này đã phân
    chia khả năng cạnh tranh một số mặt hàng nông sản của Việt Nam thành 3 nhóm:
    nhóm có khả năng cạnh tranh cao (gạo, cà phê, hạt điều), cạnh tranh trung bình
    (chè, cao su, lạc); cạnh tranh yếu (đường, sữa, bông). Các giải pháp chủ yếu tập
    2
    trung để phát triển sản xuất nông nghiệp và đẩy mạnh xuất khẩu chung cho tất cả
    các loại hàng nông sản.
    Báo cáo khoa học về “Nghiên cứu những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy lợi
    thế nâng cao khả năng cạnh tranh và phát triển thị trường xuất khẩu nông sản trong
    thời gian tới: cà phê, gạo, cao su, chè, điều” (2001), của Bộ NN&PTNT, do TS.
    Nguyễn Đình Long làm chủ nhiệm đề tài, đã đưa ra những khái niệm cơ bản về lợi
    thế so sánh và lợi thế cạnh tranh, phân tích những đặc điểm và đưa ra những chỉ tiêu
    về lợi thế cạnh tranh của một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu (gạo, cà phê,
    cao su, chè và điều), bao gồm các chỉ tiêu về định tính như chất lượng và độ an toàn
    trong sử dụng, quy mô và khối lượng, kiểu dáng và mẫu mã sản phẩm, phù hợp của
    thị hiếu và tập quán tiêu dùng, giá thành v.v và các chỉ tiêu định lượng như: mức
    lợi thế so sánh (RCA), chi phí nguồn lực nội địa (DRC). Số liệu nghiên cứu mới
    dừng lại ở năm 2000.
    Nghiên cứu của ISGMARD (2002) về “Tác động của tự do hóa thương mại
    đến một số ngành hàng nông nghiệp Việt Nam: Lúa gạo, cà phê, chè, đường”. Dự
    án đã sử dụng mô hình cân bằng bộ phận để đánh giá tác động của Hiệp định
    thương mại tự do ASEAN (AFTA) tới gạo, cà phê, chè và mía đường. Báo cáo chỉ ra
    rằng, AFTA sẽ giúp tăng xuất khẩu nông sản cả về số lượng và giá xuất khẩu (lượng
    gạo xuất khẩu sẽ tăng 10,5% với giá tăng 4,2%; lượng cà phê tăng 2,3% với giá
    tăng 1,9%; lượng chè tăng 1,3% với giá tăng 0,8%, v.v ). Song, sử dụng số liệu điều
    tra nông hộ thuần túy với giá lao động rẻ không phản ánh đúng chỉ số cạnh tranh
    của toàn ngành hàng Việt Nam.
    Sách tham khảo về “Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong quá
    trình hội nhập kinh tế quốc tế“ (2003) của Chu Văn Cấp (chủ biên), đã nghiên cứu
    khả năng cạnh tranh của một số mặt hàng xuất khẩu như gạo, chè, cà phê, thủy sản
    cho đến năm 1999 dựa trên các tiêu chí về chi phí sản xuất, giá xuất khẩu, chất
    lượng và uy tín sản phẩm, thị trường tiêu thụ v.v
    Báo cáo khoa học về “Khả năng cạnh tranh nông sản Việt Nam trong hội nhập
    AFTA” (2005), của Quỹ Nghiên cứu ICARD-MISPA, TOR số MISPA A/2003/06.
    Báo cáo đã nghiên cứu thực trạng, tiềm năng và lợi thế cạnh tranh của một số mặt hàng
    nông sản Việt Nam bao gồm gạo, chè, tiêu, thịt lợn, gà và dứa trên thị trường nội địa
    trong bối cảnh hội nhập AFTA . Đồng thời báo cáo nghiên cứu ảnh hưởng của việc
    Việt Nam gia nhập AFTA đối với một số mặt hàng nông sản trên đến năm 2004.
    Ngoài ra, còn có rất nhiều các công trình nghiên cứu khoa học khác đã đã
    nghiên cứu từng loại nông sản xuất khẩu riêng biệt của nước ta trong thời gian qua
    như: Lúa gạo Việt Nam trước thiên niên kỷ mới-hướng xuất khẩu của TS. Nguyễn
    Trung Vãn[62]; Cung cầu hàng hóa gạo và những giải pháp chủ yếu phát triển thị
    trường lúa gạo Việt Nam của TS. Đinh Thiện Đức[24]; Cà phê Việt Nam và khả
    3
    năng cạnh tranh trên thị trường thế giới của TS. Nguyễn Tiến Mạnh [38]; Cây chè
    Việt Nam: Năng lực cạnh tranh xuất khẩu và phát triển của TS. Nguyễn Hữu Khải
    [30]; Một số giải pháp phát triển xuất khẩu cao su tự nhiên của Việt Nam đến năm
    2010, của Bộ Thương mại [16] v.v
    Tóm lại, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện,
    đầy đủ và cập nhật về vấn đề nâng cao sức cạnh tranh hàng nông sản xuất khẩu của
    Việt Nam trong điều kiện hội nhập KTQT. Hầu hết các nghiên cứu mới chỉ dừng lại
    ở việc sơ lược sức cạnh tranh xuất khẩu của một số mặt hàng đơn lẻ, đưa ra các giải
    pháp nhằm phát huy những lợi thế cạnh tranh, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng
    nông sản v.v Vì vậy, có thể nói đề tài được lựa chọn nghiên cứu trong luận án mang
    tính thời sự cao, đặc biệt trong điều kiện Việt Nam gia nhập WTO.
    3. Mục đích nghiên cứu của luận án
    Nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận chung về cạnh tranh và
    sức cạnh tranh của hàng nông sản, làm rõ sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh
    của hàng nông sản Việt Nam trong điều kiện hội nhập KTQT. Dựa trên cơ sở lý
    luận đó, luận án đã phân tích và đánh giá thực trạng sức cạnh tranh của một số mặt
    hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam trong điều kiện hội nhập KTQT,
    chỉ rõ những điểm mạnh, điểm yếu so với các mặt hàng của các đối thủ cạnh tranh
    khác và nguyên nhân gây ra những điểm yếu đó. Kết hợp giữa lý luận và thực tiễn,
    luận án đã đề xuất các quan điểm và giải pháp, kiến nghị có cơ sở khoa học và có
    tính khả thi nhằm nâng cao sức cạnh tranh một số mặt hàng nông sản xuất khẩu của
    Việt Nam trong điều kiện hội nhập KTQT.
    4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
    Đối tượng nghiên cứu của luận án là lý luận và thực tiễn về sức cạnh tranh của
    hàng nông sản Việt Nam trong điều kiện hội nhập KTQT.
    Phạm vi nghiên cứu của luận án là tập trung nghiên cứu sức cạnh tranh một số
    hàng NSXK chủ yếu của Việt Nam như gạo, cà phê, chè và cao su trong điều kiện
    hội nhập KTQT. Thời gian nghiên cứu từ năm 1996-2006.
    5. Phương pháp nghiên cứu của luận án
    Trong quá trình nghiên cứu, luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ
    yếu trong nghiên cứu kinh tế như phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch
    sử, phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp thống
    kê. Luận án sử dụng các phương pháp thu thập thông tin truyền thống, phương pháp
    chuyên gia, phương pháp phân tích ngành sản phẩm, phương pháp phân tích kinh
    doanh để tập hợp và phân tích các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến sức cạnh
    tranh của sản phẩm nói chung, hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu nói riêng. Phương
    pháp so sánh được sử dụng phổ biến để làm sáng tỏ hơn các kết luận trong từng
    hoàn cảnh cụ thể.
    4
    6. Những đóng góp mới của luận án
    Luận án sử dụng cách tiếp cận mới khi hệ thống hóa những lý luận cơ bản về
    cạnh tranh và sức cạnh tranh của hàng hóa. Luận án đã chỉ ra rằng nếu hiểu cạnh
    tranh là cuộc đấu tranh giữa các chủ thể kinh doanh trên thị trường thì chỉ có cạnh
    tranh giữa các cá nhân, các doanh nghiệp, cạnh tranh trong ngành kinh tế và giữa
    các quốc gia. Sức cạnh tranh của hàng hóa được biểu hiện ở tất cả những đặc điểm,
    yếu tố, tiềm năng mà hàng hóa đó có thể duy trì và phát triển vị trí của mình trên thị
    trường trong một thời gian dài. Tuy nhiên, sẽ không có sức cạnh tranh của hàng hóa
    cao khi sức cạnh tranh của doanh nghiệp, của ngành sản xuất, của quốc gia kinh
    doanh hàng hóa đó thấp.
    Luận án đã hệ thống hóa 5 tiêu chí cơ bản để đánh giá sức cạnh tranh của hàng
    nông sản trong điều kiện hội nhập KTQT, đó là: sản lượng và doanh thu hàng nông
    sản xuất khẩu, thị phần hàng nông sản xuất khẩu, chi phí sản xuất và giá hàng nông
    sản xuất khẩu, chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm hàng nông sản xuất khẩu,
    thương hiệu và uy tín của hàng nông sản xuất khẩu.
    Luận án đã sử dụng 5 tiêu chí trên để tập trung phân tích đánh giá thực trạng
    sức cạnh tranh của 4 mặt hàng: gạo, cà phê, chè và cao su của Việt Nam và đã chỉ ra
    rằng, cho đến nay sức cạnh tranh của các mặt hàng này đã được nâng lên rõ rệt, thể
    hiện Việt Nam đã xác định được mặt hàng xuất khẩu chủ yếu dựa trên việc khai
    thác những lợi thế so sánh của đất nước. Tuy nhiên, xét về tổng thể, sức cạnh tranh
    của các mặt hàng này còn ở mức thấp, chưa phản ánh hết tiềm năng và thực lực của
    đất nước, thể hiện quy mô về khối lượng và kim ngạch xuất khẩu còn nhỏ bé, thị
    trường hàng hóa xuất khẩu chưa ổn định, chưa chi phối được giá cả thế giới, chất
    lượng hàng xuất khẩu còn ở mức thấp, đa số hàng xuất khẩu chưa có thương hiệu
    v.v Sức ép cạnh tranh đối với hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam sẽ có nguy
    cơ ngày càng cao khi Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO, nếu như Việt
    Nam không có các chính sách và giải pháp thích hợp.
    Bằng phương pháp so sánh, luận án đã đánh giá sức cạnh tranh của một số mặt
    hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam, chỉ ra những điểm mạnh, điểm yếu
    của các mặt hàng này so với một số đối thủ cạnh tranh mạnh trên thị trường thế giới
    như Thái Lan (đối với gạo), Brazil (đối với cà phê), Sri Lanka (đối với chè),
    Malaysia (đối với cao su). Luận án đi sâu phân tích những nguyên nhân gây ra
    những điểm yếu của một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam,
    đó là tình trạng sản xuất hàng nông sản hiện nay phổ biến vẫn ở quy mô nhỏ, phân
    tán, lạc hậu, chưa chú ý nhiều đến chất lượng từ khâu chọn giống, chăm sóc đến
    khâu chế biến, bảo quản và tổ chức xuất khẩu. Trong khi đó công tác quy hoạch
    chưa đảm bảo sự gắn kết giữa vùng nguyên liệu có quy mô lớn với các cơ sở chế
    biến, thu mua hàng xuất khẩu, tổ chức hệ thống kinh doanh nông sản còn yếu
    kém.v.v .
    5
    Từ nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản, từ thực tiễn nước ta và kinh
    nghiệm của một số nước trên thế giới, luận án đã đưa ra 5 quan điểm chủ yếu định
    hướng cho các giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh hàng nông sản xuất khẩu
    nói chung, một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu nói riêng. Các giải pháp
    này cần được dựa trên cơ sở phát huy thế mạnh tổng hợp và sự sáng tạo của các
    thành phần kinh tế dưới sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Chính phủ trong điều
    kiện hội nhập KTQT.
    Dựa theo các quan điểm trên, luận án đưa ra 8 nhóm giải pháp chủ yếu bao
    gồm giải pháp về hoàn thiện cơ chế quản lý của Nhà nước, nâng cao chất lượng,
    phát triển thương hiệu hàng hóa, phát triển nguồn nhân lực.v.v. Luận án nhấn mạnh
    đến giải pháp tăng cường công tác tổ chức sản xuất kinh doanh hàng nông sản xuất
    khẩu và coi đây là giải pháp quan trọng nhằm tạo ra sự liên kết chặt chẽ giữa nhà
    nước, nhà khoa học, doanh nghiệp và nhà nông từ khâu đầu vào, sản xuất, thu gom,
    chế biến và xuất khẩu. Muốn sự liên kết này hoạt động có hiệu quả, phải tuân theo
    nguyên tắc dựa trên khả năng, mối quan tâm thực sự và đảm bảo lợi ích hài hòa của
    các bên tham gia.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...