Thạc Sĩ Nâng cao năng lực cạnh tranh các doanh nghiệp phần mềm Việt Nam

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Nhu Ely, 14/4/14.

  1. Nhu Ely

    Nhu Ely New Member

    Bài viết:
    1,771
    Được thích:
    1
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    LUẬN VĂN THẠC SỸ
    NĂM 2011


    MỞ ĐẦU
    1.1. Bối cảnh chính sách

    Trong khoảng mười năm trở lại đây, ngành công nghiệp công nghệ thông tin (CNTT) Việt Nam nói chung và ngành công nghiệp phần mềm (CNpPM) nói riêng đã có những bước tiến rất đáng kể. Cho đến năm 2000, Việt Nam chưa có được một doanh nghiệp CNTT quy mô lớn nào, chỉ có khoảng 25 doanh nghiệp quy mô nhỏ với số lượng lao động từ 20-30 người/ doanh nghiệp. Vậy mà đến nay, cả nước đã có hơn 1000 doanh nghiệp phần mềm (DNPM), trong đó có khoảng 10 doanh nghiệp với quy mô trên 1000 lao động, tiêu biểu như FPT Software, FPT Information Systems, TMA, CSC 9. Bên cạnh đó, uy tín của những trung tâm phát triển phần mềm của cả nước như Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội cũng đã được nâng lên đáng kể, luôn nằm trong danh sách 20 điểm đến hấp dẫn nhất của các thị trường mới nổi về gia công phần mềm trên thế giới theo đánh giá của tạp chí GlobalServices ấn bản tháng 11/2010.
    Mặc dù được đánh giá như một điểm đến rất hấp dẫn của gia công phần mềm, tuy nhiên theo đánh giá của Gartner, khi đem so sánh với các quốc gia gia công phần mềm trong khu vực Châu Á/ Thái Bình Dương, Việt Nam chỉ có ưu thế nhất ở tiêu chí chi phí, trong khi tất cả các tiêu chí còn lại đều được đánh giá ở mức khá và tốt. Đặc biệt, Việt Nam bị đánh giá ở mức thấp nhất trên tiêu chí an ninh và sở hữu trí tuệ. Việt Nam chỉ có ưu thế hơn mỗi Indonesia, trong khi đều kém hơn tất cả các nước còn lại. Trong đó, ưu thế mạnh nhất của Việt Nam trong cả 3 năm 2008, 2009, 2010 là chi phí thấp đã bị chính Indonesia vượt qua kể từ tháng 12/2010. Đây là tín hiệu cho thấy, ngành CNpPM Việt Nam không thể mãi dựa vào ưu thế chi phí thấp để xây dựng thế mạnh cạnh tranh của mình, đồng thời cần phải cải thiện các tiêu chí bị đánh giá thấp, đặc biệt là an ninh và bảo mật thông tin.
    Doanh thu ngành CNpPM cũng liên tục tăng qua từng năm. Nếu như trong năm 1998, nguồn thu đến chủ yếu từ phần mềm dịch vụ nội địa với tổng doanh thu dưới năm mươi triệu đô la Mỹ, thì đến năm 2008, doanh thu ngành CNpPM đã đạt trên sáu trăm năm mươi triệu đô la Mỹ, trong đó tỷ trọng giữa phần mềm nội địa và phần mềm xuất khẩu đạt mức gần bằng nhau, khoảng ba trăm triệu đô la Mỹ. Điều này cho thấy rằng, bên cạnh thị trường gia công phần mềm xuất khẩu phát triển mạnh trong thời gian qua, thì thị trường phần mềm nội địa vẫn có được tốc độ phát triển ổn định.
    Mặc dù doanh thu ngành CNpPM Việt Nam đã có mức tăng trưởng đáng kể từ năm 1998 cho đến nay, tuy nhiên nếu so sánh với doanh thu sản xuất phần mềm của các quốc gia trong khu vực thì Việt Nam vẫn còn thấp hơn rất nhiều. Chẳng hạn, doanh thu ngành CNpPM Việt Nam năm 2009 chỉ bằng 1,2% so với Ấn Độ, 3,4% so với Trung Quốc. Thậm chí khi so với Philipines, doanh thu ngành CNpPM Việt Nam chỉ bằng 9,4%.
    1.2. Mục tiêu nghiên cứu
    Những thống kê sơ bộ ở trên cho thấy, ngành CNpPM Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể cả về số lượng doanh nghiệp cũng như doanh thu toàn ngành trong một thập kỷ vừa qua. Tuy nhiên, Việt Nam phải cạnh tranh với rất nhiều quốc gia khác trên thế giới trong ngành CNpPM, cũng như doanh thu sản xuất phần mềm của Việt Nam hiện nay thấp hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực. Với chỉ một ưu thế của Việt Nam dựa vào chi phí thấp (theo đánh giá của Gartner), ngành CNpPM Việt Nam nói chung và các DNPM Việt Nam nói riêng sẽ không thể có được sự phát triển bền vững. Một khi giá các yếu tố đầu vào tăng lên, ưu thế ngày càng mất đi thì các DNPM Việt Nam sẽ không thể cạnh tranh với các đối thủ cạnh tranh trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy, việc xác định năng lực cạnh tranh (NLCT) của các DNPM Việt Nam cũng như nhận diện được các yếu tố tác động đến NLCT là rất cần thiết, giúp đưa ra được những chính sách thúc đẩy phát triển ngành CNpPM trong tương lai.
    Với định hướng như vậy, mục tiêu của đề tài này tập trung vào nghiên cứu trả lời các câu hỏi sau:
    - Ngành CNpPM Việt Nam hiện nay đang ở vị trí nào trong chuỗi giá trị phần mềm thế giới?
    - Chiến lược cạnh tranh của các DNPM Việt Nam và các yếu tố tác động đến việc chọn lựa chiến lược cạnh tranh này là gì?
    Từ những nghiên cứu trên, tác giả sẽ đề xuất một số chính sách giúp nâng cao NLCT của các DNPM Việt Nam.
    1.3. Phương pháp nghiên cứu
    Để trả lời những câu hỏi ở trên, tác giả sẽ sử dụng phương pháp định tính theo hướng nghiên cứu tình huống tại một số doanh nghiệp, tổ chức ở Việt Nam, cũng như so sánh số liệu phân tích với các nước trong khu vực.
    Với mục tiêu nghiên cứu về ngành CNpPM Việt Nam, đề tài sử dụng nguồn số liệu thứ cấp được thống kê từ các báo cáo chuyên ngành, báo cáo Toàn cảnh CNTT hàng năm, số liệu thu thập từ trang Web của Hội tin học thành phố Hồ Chí Minh (HCA) và số liệu được cung cấp bởi Hiệp hội DNPM Việt Nam (VINASA). Đề tài cũng sử dụng một số thông tin thu thập được từ việc phỏng vấn trực tiếp một số chuyên gia trong lĩnh vực CNpPM, từ các bài báo viết về ngành CNpPM.
    Trên cơ sở phân tích những nguồn thông tin trên, tác giả sẽ nghiên cứu, đề xuất những chính sách cụ thể giúp thúc đẩy nâng cao NLCT của các doanh nghiệp ngành CNpPM Việt Nam.
    1.4. Kết cấu luận văn
    Luận văn được xây dựng dựa trên 5 chương: Chương 1 là phần tổng quan trình bày về bối cảnh chính sách, mục đích nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và kết cấu luận văn. Chương 2 tiến hành phân tích những đặc điểm của ngành CNpPM Việt Nam, vị trí của các DNPM Việt Nam trong chuỗi giá trị ngành CNpPM thế giới. Chương 3 xác định chiến lược cạnh tranh mà các DNPM Việt Nam hiện đang sử dụng. Chương 4 tập trung phân tích một số yếu tố tác động đến việc chọn lựa chiến lược cạnh tranh của các DNPM Việt Nam bao gồm nguồn nhân lực, hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm (VC), vai trò của các công viên phần mềm (CVPM). Chương 5 sẽ đề xuất một số đóng góp về mặt chính sách giúp nâng cao NLCT của các DNPM Việt Nam.
     
Đang tải...