Tiểu Luận Nâng cao năng lực cạnh canh của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ Việt Nam.

Thảo luận trong 'Quản Trị Kinh Doanh' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    MỤC LỤC​ I. Tổng quan về thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam 2
    1. Khái niệm bảo hiểm nhân thọ. 2
    2. Sự hình thành và phát triễn thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam 2
    3. Triển vọng của thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam 4
    4. Các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam 5
    II. Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ. 7
    1. Khái niệm về cạnh tranh. 7
    2. Các hình thức cạnh tranh. 7
    3. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. 8
    III. Một số biện pháp nâng cao năng lực cạnh canh của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ việt nam. 9

    1. Nâng cao năng lực tài chính. 9
    2. Đa dạng hóa sản phẩm 10
    3. Cải tiến công nghệ quản lý. 12
    4. Ứng dụng thương mại điện tử trong giao dịch với khách hàng. 13
    5. Chú trọng phát triển thương hiệu. 13
    6. Chú trọng phát triển nguồn nhân lực. 14
    7. Đa dạng hóa kênh phân phối 15
    IV. Kết luận. 16
    V. Tài liệu tham khảo. 17

    I. Tổng quan về thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam 1. Khái niệm bảo hiểm nhân thọ Nói đến bảo hiểm nhân thọ, thông thường người ta hiểu đó là các hợp đồng bảo hiểm để bảo vệ quyền lợi cho các cá nhân. Thực tế, bảo hiểm nhân thọ còn được biết đến như là một công cụ quan trọng đối với các doanh nghiệp thông qua các loại hình bảo hiểm phổ biến như bảo hiểm cho người chủ chốt, bảo hiểm tín dụng, bảo hiểm cho người lao động.
    Một doanh nghiệp dù lớn hay chỉ là cơ sở kinh doanh đều phải đối mặt với những vấn đề nhất định. Dưới đây sẽ đề cập đến việc sử dụng bảo hiểm nhân thọ như là giải pháp cho một số vấn đề đó.
    Chủ một cửa hàng dành cả cuộc đời để tạo dựng, tái đầu tư phần lớn lợi nhuận và đi vay một khoản tiền từ ngân hàng để đầu tư cho cho công việc kinh doanh. Mọi công sức của anh ta có thể vô nghĩa nếu việc kinh doanh đó chẳng có giá trị đối với người nhà anh ta. Tài năng kinh doanh của anh ta giúp phát triển cửa hàng nhưng vợ và con anh ta khó có thể duy trì được cửa hàng nếu chẳng may anh qua đời. Bảo hiểm nhân thọ giúp cho những người thừa hưởng nhận được những thành quả từ lao động của anh ta.
    Hai người trẻ tuổi mở một cửa hàng bán thuốc và đã phát triển nó thành công nhờ sự hợp tác ăn ý. Một người bị qua đời đột ngột và người kia làm việc cùng người vợ được thừa kế. Do đó anh ta phải làm hầu hết mọi việc nhưng chỉ nhận được một nửa thành quả do mình làm ra. Khi đó một thoả thuận mua-bán của bảo hiểm nhân thọ theo giá trị của công việc kinh doanh sẽ giúp giải quyết tình trạng khó xử này.
    Một công ty trách nhiệm hữu hạn cũng có thể rơi vào tình trạng như trên, điều khác duy nhất là không có một giải pháp pháp lý cho trường hợp tử vong của một cổ đông đối tác. Một lần nữa, thoả thuận mua lại cổ phần theo hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có thể giải quyết vấn đề này
    2. Sự hình thành và phát triễn thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam Bắt đầu từ năm 1986 Việt Nam đã chính thức thực hiện chính sách “Đổi mới”, với trọng tâm là chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Chính sách đổi mới đã thực sự có tác động tích cực đối với toàn bộ đời sống kinh tế – xã hội của đất nước, đem lại sự ổn định và tăng trưởng kinh tế cao, đời sống người dân được cải thiện. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm trong 10 năm qua đạt trên 7% và trong năm 2007 đạt 8,5%; thu nhập bình quân theo đầu người tăng từ 423 đô la Mỹ năm 2001 lên 835 đô la Mỹ năm 2007; lạm phát được kiềm chế và kiểm soát; tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 58,1% năm 1993 xuống còn 32% năm 2000 và còn 14,7% vào năm 2007. Tăng trưởng kinh tế cùng với việc xoá bỏ dần cơ chế bao cấp đã thúc đẩy nhu cầu và sự ra đời của thị trường bảo hiểm nhân thọ của người dân Việt Nam.
    Năm 1996 đánh dấu sự ra đời của ngành bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam bằng việc Bộ Tài chính cho phép Bảo Việt triển khai thí điểm bảo hiểm nhân thọ. Đáp lại yêu cầu của quá trình mở cửa và hội nhập cũng như yêu cầu phát triển của bản thân ngành bảo hiểm nhân thọ. Sau thời gian thí điểm, Bộ Tài chính đã lần lượt cấp giấy phép hoạt động cho các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ nước ngoài (trong năm 1999 cấp giấy phép cho 3 doanh nghiệp là Prudential, Manulife, Bảo Minh – CMG – nay là Daiichi Life), sau đó là AIA (năm 2000), Prevoir, ACE Life, Great Eastern Life và Cathay Life. Đến nay trên thị trường đã có 09 doanh nghiệp hoạt động và theo dự báo sẽ có thêm nhiều doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ được cấp giấy phép hoạt động trong thời gian tới.
    Với sự gia nhập của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ nước ngoài, thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam đã có sự phát triển mạnh mẽ cả về quy mô, sản phẩm, chất lượng dịch vụ và tính chuyên nghiệp. Có thể kể ra những con số và thông tin đáng chú ý sau:
    Về khai thác mới: nếu như năm 1996 doanh thu phí khai thác mới của toàn thị trường chưa đầy 1 tỷ đồng thì đến năm 2003 con số này là 2.050 tỷ đồng (bằng 0,61% GDP) và năm 2007 ước đạt 1.815 tỷ đồng (bằng 0,16 % GDP). Xin lưu ý, trong giai đoạn từ 2004 đến 2006, thị trường bước vào giai đoạn suy giảm và đã có dấu hiệu hồi phục từ năm 2007.
    Tổng doanh thu phí bảo hiểm: năm 2003 tổng doanh thu phí của toàn thị trường đạt 6.442 tỷ đồng (bằng 1,92% GDP) và năm 2007 đạt 9.485 tỷ đồng (bằng 2,06% GDP). Chính từ nguồn phí bảo hiểm này, ngành bảo hiểm nhân thọ đã cung cấp một lượng vốn lớn cho nền kinh tế.
    Tổng số hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực đến cuối năm 2007: 3.834 nghìn hợp đồng chính (bằng khoảng 4,5% dân số).
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...