Tiến Sĩ Nâng cao hiệu quả thanh tra người nộp thuế ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Nhu Ely, 23/11/13.

  1. Nhu Ely

    Nhu Ely New Member

    Bài viết:
    1,771
    Được thích:
    1
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    LUẬN ÁN TIẾN SĨ
    NĂM 2013


    MỞ ĐẦU
    1. Tính cấp thiết của đề tài

    Nền kinh tế Việt Nam những năm gần đây luôn đạt được tốc độ tăng trưởng cao so với khu vực do chủ trương phát triển kinh tế hiện đại hóa, công nghiệp hóa và hội nhập kinh tế thế giới. Chính phủ khuyến khích đầu tư, liên kết, phát triển kinh tế, tự do hóa thương mại không những trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam mà còn ở nước ngoài. Với chủ trương khuyến khích đầu tư, Chính phủ đã nới lỏng các quy định pháp lý, tạo điều kiện để các doanh nghiệp phát triển tất cả các lĩnh vực kinh doanh, đan xen hỗn hợp phong phú. Với sự thông thoáng của Luật Doanh nghiệp trong việc cho phép thành lập doanh nghiệp, số lượng các tổ chức, cá nhân kinh doanh ngày càng tăng, nhiều nghiệp vụ kinh tế mới xuất hiện, phát sinh. Hàng năm có hàng chục ngàn doanh nghiệp và hộ kinh doanh mới ra đời thuộc diện quản lý thu thuế. Mặt trái của sự phát triển nhanh về số lượng người nộp thuế (NNT) là một số NNT có ý thức tuân thủ pháp luật thuế không tốt, có hành vi gian lận ngày càng tinh vi và phức tạp, thủ đoạn trốn- tránh thuế khó phát hiện hơn trước nhiều lần.
    Thanh tra thuế được coi như bộ phận chủ lực của ngành thuế trong phòng ngừa, răn đe gian lận trong chống trốn-tránh thuế, nâng cao tính tuân thủ của NNT. Thanh tra thuế được sử dụng như chức năng đảm bảo pháp chế thuế, giúp tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong lĩnh vực thuế, nâng cao hiệu quả của quản lý Nhà nước về thuế, phải được xác định như một nhân tố tất yếu của công tác quản lý thuế.
    Thanh tra thuế được coi như một biện pháp hữu hiệu của cơ quan thuế (CQT) nhằm răn đe, phát hiện, xử lý, hạn chế những sai phạm của NNT, nâng cao tính nghiêm minh của pháp luật, làm cho NNT tự giác tuân thủ, đảm bảo sự công bằng khách quan cho NNT, nhờ vậy mà tác động ngược trở lại thúc đẩy nền kinh tế phát triển lành mạnh, bền vững.
    Việc nâng cao hiệu quả thanh tra thuế là hết sức cần thiết, vì:
    Thứ nhất, do mâu thuẫn giữa sự gia tăng số lượng NNT và số lượng cán bộ làm công tác thanh tra.
    Số lượng NNT hoạt động trong nền kinh tế tăng rất nhanh và đa dạng, nhiều lĩnh vực kinh doanh mới ra đời: kinh doanh qua mạng phát triển, các giao dịch, hợp đồng và thanh toán được thực hiện bằng điện tử; việc hạch toán kế toán và lưu giữ chứng từ càng được điện tử hoá. Hoạt động của NNT đa dạng, phức tạp làm cho công tác thanh tra thuế càng gặp nhiều khó khăn, chưa theo kịp yêu cầu phát triển rất nhanh chóng của nền kinh tế. Trong khi đó, số lượng công chức làm công tác thanh tra thuế còn ít. Mâu thuẫn về số lượng NNT phát triển và hạn chế về nguồn lực, cán bộ thanh tra (CBTT) đã gây khó khăn và thách thức cho công tác thanh tra thuế.
    Thứ hai, do tình trạng gian lận, trốn-tránh thuế, không tuân thủ pháp luật thuế ngày càng tinh vi, phức tạp.
    Một bộ phận NNT đã lợi dụng “kẽ hở” của các Luật thuế và sự chưa quyết liệt giám sát chặt chẽ của CQT để “lách” luật, trốn-tránh nghĩa vụ khai, nộp thuế, chưa thực sự tự giác tính đúng, tính đủ số thuế phải nộp, “chây ỳ” nợ đọng tiền thuế, hoạt động liên kết, chuyển giá xảy ra trong nhiều loại hình NNT khác nhau với mức độ ngày càng tinh vi và phức tạp, hành vi, thủ đoạn cũng ngày càng khó phát hiện hơn, gây nhức nhối cho nền kinh tế, xã hội và trật tự quản lý kinh tế, đòi hỏi các ngành, các cấp phải cùng vào cuộc phòng chống Các hành vi trốn-tránh, gian lận thuế của NNT chưa được CQT kịp thời phát hiện và ngăn chặn đã phần nào làm giảm tính răn đe, nghiêm minh của pháp luật thuế, chưa có tác động thúc đẩy tính tự giác tuân thủ của NNT. Nhìn chung hiện nay thanh tra thuế đang “đi sau” doanh nghiệp, chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác phòng chống, hạn chế, phòng ngừa gian lận thuế. Nguyên nhân của những yếu kém này một phần do thẩm quyền xử lý của thanh tra thuế còn hạn hẹp, cách thức tổ chức hoạt động thanh tra chưa khoa học, phương pháp thanh tra chưa khoa học và lực lượng thanh tra còn mỏng, trình độ cán bộ thanh tra (CBTT) còn hạn chế,
    Thứ ba, do yêu cầu của đổi mới cơ chế quản lý thuế và sự thay đổi của chính sách thuế.
    Sự thay đổi cách thức vận hành của cơ chế quản lý thuế mới đòi hỏi tất yếu công tác thanh tra thuế (một trong các chức năng cơ bản của quản lý thuế) đổi mới, nâng cao hiệu quả. Do đó, để thực hiện tốt chức năng quản lý của mình, CQT buộc phải thay đổi phương thức quản lý, để quản lý NNT phù hợp hơn. Việc quản lý kinh tế nói chung và quản lý hoạt động của NNT nói riêng cũng phải sử dụng các công cụ và phương pháp quản lý hiện đại. Với sự tăng trưởng về kinh tế, sự hoàn thiện hệ thống chính sách thuế và xu hướng hội nhập, ngành thuế Việt Nam không thể duy trì cách quản lý truyền thống và thủ công như hiện nay. Để khắc phục những hạn chế, tồn tại của chính mình, công tác thanh tra thuế cần phải tất yếu đổi mới, nâng cao hiệu quả cho phù hợp.
    Ngoài ra, thanh tra thuế cần đổi mới do hàng loạt các luật thuế thay đổi: thuế giá trị gia tăng (GTGT), thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN), thuế thu nhập cá nhân (TNCN) . Thời gian qua, nước ta mới chỉ tập trung nhiều vào cải cách hệ thống chính sách thuế, tuy nhiên khâu tổ chức thực hiện vẫn còn chưa tương xứng với mục tiêu quản lý Nhà nước về thuế, kết quả đạt được của thanh tra thuế còn hạn chế, quy trình quản lý thuế tại một số khâu còn phức tạp, thiếu tính thống nhất giữa các sắc thuế hoặc giữa những NNT trong việc kê khai nộp thuế, các tổ chức, cá nhân liên quan chưa thật sự chủ động phối hợp trong việc cung cấp thông tin, chia sẻ trách nhiệm với CQT để thu thuế làm hạn chế tính chính xác, tính khả thi và hiệu quả của công tác chỉ đạo thu và việc thi hành chính sách thuế.
    Thứ tư, do yêu cầu quản lý thuế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
    Ngày nay, xu thế hội nhập, liên kết phát triển kinh tế trong khu vực và tiến tới toàn cầu hoá kinh tế ngày càng ở mức độ cao và là tất yếu khách quan. Theo đó hội nhập quốc tế về thuế ngày càng rộng và sâu, nhằm khuyến khích đầu tư, tự do hoá thương mại trong khu vực và trên toàn thế giới. Ngoài việc phải xây dựng hệ thống chính sách thuế tương thích yêu cầu hội nhập quốc tế, công tác quản lý thuế- trong đó có thanh tra thuế- phải được cải cách và hiện đại hoá theo các chuẩn mực quản lý thuế quốc tế nhằm thu hút mạnh mẽ đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và khuyến khích doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài, tạo môi trường thuận lợi, đồng nhất về thuế để phát triển kinh tế (hiện tại, sự khác biệt giữa Việt Nam và các nước tiên tiến về hệ thống thuế và cơ chế quản lý thuế còn khá lớn).
    Tình trạng cấp bách trên đặt ra cho công tác quản lý thuế nói chung và thanh tra thuế nói riêng nhiều thách thức và buộc phải điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn quản lý và phát huy vai trò, tác dụng của mình. Thanh tra thuế phải đổi mới, nâng cao chất lượng, phát huy tính hiệu quả tương thích, phù hợp với trình độ phát triển của doanh nghiệp và của nền kinh tế, phù hợp với các chuẩn mực quản lý thuế quốc tế. Do đó, cần phải nâng cao chất lượng, hiệu quả thanh tra thuế của CQT các cấp từ trung ương đến địa phương nhằm nâng cao khả năng phát hiện gian lận, trốn-tránh thuế, tăng thu cho ngân sách nhà nước (NSNN), nâng cao tính răn đe, phòng ngừa gian lận, nâng cao ý thức tuân thủ của NNT, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng và lành mạnh cho NNT trong điều kiện nền kinh tế thị trường.
    Về mặt lý luận, thanh tra thuế có vai trò rất quan trọng, nhưng trong thực tế, thanh tra thuế chưa phát huy được hết vai trò, tác dụng và chưa được đầu tư, sử dụng như một công cụ hiệu quả để chống gian lận, chống thất thu ngân sách và răn đe, phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật về thuế.
    Vậy làm thế nào để CQT với điều kiện khó khăn và nguồn lực hạn chế mà vẫn tổ chức thanh tra thuế đạt hiệu quả cao nhất trong bối cảnh số lượng NNT ngày càng gia tăng và các thủ đoạn vi phạm ngày càng tinh vi, phức tạp? Tác giả đã chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra người nộp thuế ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài nghiên cứu cho luận án.
    2. Mục đích nghiên cứu của Luận án
    Mục đích nghiên cứu của Luận án: nghiên cứu cơ sở lý luận về hiệu quả thanh tra thuế, xác định, đánh giá hiệu quả của thanh tra thuế và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thanh tra thuế ở Việt Nam.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...