Tài liệu Mỹ thuật đời Lý

Thảo luận trong 'Kiến Trúc - Xây Dựng' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Đề tài: Mỹ thuật đời Lý

    Mỹ thuật đời Lư

    Cuối thế kỷ thứ 10, nước ta thoát khỏi ách đô hộ phương Bắc. Trải qua hai triều Đinh, Lê thống nhất nước nhá và chống tái ngoại xâm, đến thời Lư, nghệ thuật phát triển thăng hoa với bản sắc riêng nhằm hoá giải những ảnh hưởng của Văn hoá Trung Hoa.

    Hai triều Đinh, Lờ đó tạo dựng được một nhà nước có chủ quyền. Triều Lư nắm quyền có ư thức phục hưng Văn hoá dân tộc trên tinh thần có sự giao thoa với Văn hoá Chăm - Ấn đă tạo cơ sở cho nghệ thuật tạo h́nh phát triển. Thêm vào đó, việc Phật giáo trở thành quốc giáo, tăng lữ có vị trí tinh thần trọng yếu đạo Phật được phổ cập đă là nhân tố tác động vào hướng phát triển và phong cách nghệ thuật. Việc nước Đại Việt độc lập, tự chủ, đủ sức mạnh chống ngoại xâm, trải qua nhiều năm thái b́nh thịnh vượng cũng có tác động không nhỏ.

    Ư thức dân tộc định h́nh cho nghệ thuật. Phật giáo ảnh hưởng đến các công tŕnh kiến trúc và đề tài các tác phẩm. Cuộc sống thái b́nh tự do, yên ấm ảnh hưởng đến con người. Tâm hồn người Việt trở nên thư thái, có thời gian để lăng mạn và chuyên tâm vào nghệ thuật. Nghệ thuật thời Lư thăng hoa. Tất cả là nhờ nền độc lập và sức mạnh của đất nước.

    Kiến trúc thời Lư phục vụ Phật giáo. Rất nhiều quốc tự được xây dựng. Phong cách thống soái là hoành tráng, đồ sộ. Chùa Một Cột (chựa Diờn Hựu) được xây ở Thăng Long với quy mô lớn hơn ngôi chùa đă có trước đó ở Hoa Lư và với sự cách điệu tuyệt diệu. Chùa Báo Ân và thỏp Bỏo Thiờn cao khoảng 70m. Chùa Phật Tích - Bắc Ninh, chùa Long Đọi - Hà Nam, chùa Bà Tấm - Hà Nội, chùa Quảng Giáo - Quảng Ninh đều là những chùa lớn.

    Kiến trúc chựa thỏp thời Lư đều to lớn, cao. Cỏc chựa thường nằm trên đỉnh núi cao. Cấu trúc và bố cục chựa thỏp đơn giản, chỉ gồm một ngôi chùa chính và ngọn tháp lớn cú đỏy vuụng. Điều này phản ánh tư tưởng giản dị, phóng khoáng của nguời thời Lư. Trang trí tháp chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Chăm, với cỏc hỡnh chim thần (Garuđa), nữ thần đầu nguời ḿnh chim, có lẽ do việc bắt những tù binh Chăm sau cuộc nam chinh của Lư Thỏnh Tụng. V́ thế ấn tượng của ngôi chùa thời Lư rất độc đáo: vừa tôn nghiêm, hùng vĩ, đường bệ bởi không gian và đường sống kiến trúc, vừa phóng khoáng lăng mạn bởi gần thiên nhiên, vừa sinh động, lư thú với các h́nh trang trí mang hơi hướng Chăm.

    Chùa thời Lư đến nay không c̣n nhiều. Nhưng ngay ở Hà Nội có một tác phẩm tuyệt đẹp là chùa Một Cột. Ngôi chùa chỉ dùng một cột duy nhất làm trụ đỡ. Khối nhà đồ sộ phía trên và cây cột đá mảnh khảnh tưởng rất tương phản, nhưng lại kết hợp hài hoà thành một h́nh ảnh tượng trưng cho bông sen giữa hồ. Nó cho thấy đạo Phật đă phát triển mạnh trong triều đại này và có tác động rơ rệt lên kiến trúc.

    Có vẻ vô lư khi một nền kiến trúc hoành tráng quy mô lại có một ngôi chùa nhỏ làm đại diện. Người ta thường nghĩ rằng kích thước chùa Một Cột từ thời Lư đến nay không thay đổi. Thực ra nó đă trải qua nhiều lần làm lại, mỗi lần kích thước đều được thu nhỏ. Lần xây dựng đầu, chựa cú quy mô rất lớn. Một tài liệu cổ thời Lư miêu tả chùa nằm trên ao Linh Chiểu, có cầu bắc thông qua một gian điện thờ, quanh ao có hành lang, ngoài dăy hành lang cú thờm ao Bớch Trỡ, lại có hai dăy cầu thang bắc qua ao, mỗi đầu cầu có tháp lưu ly. Rơ ràng quanh chùa Một Cột là một khối kiến trúc đồ sộ .Học giả Nguyễn Đỗ Cung đă dẫn một tài liệu mới về kích thước chùa, có đoạn tả cây cột cao tới 40 thước.

    Điêu khắc thời Lư tinh vi và cân đối, mang cái trung dung tĩnh tại và cái “hư khụng” của Phật giáo. Vừa mới thoát khỏi ngh́n năm nô lệ, được sống trong thái b́nh thịnh vượng, các nghệ sĩ có thể đắm ḿnh trong tôn giáo và triết học, tỉ mỉ tạc những pho tượng thể hiện cái nh́n thoát tục.

    Bên cạnh đó, điêu khắc cũng chịu ảnh hưởng Chăm. Những h́nh trang trí trên mặt đá của tháp Chương Sơn (Hà Nam) có bố cục, dáng điệu và h́nh thể gần với điêu khắc Chăm, nhưng cách biểu hiện khuôn mặt lại thuần Việt. Những khuôn mặt vũ nữ không tṛn bầu, xa xăm và có phần vô cảm như những khuôn mặt Chăm, mà linh động và tươi trẻ. Pho tượng đời Lư nổi tiếng nhất là tượng A di đà ở chùa Phật Tích. Tượng cao 2m77 cả bệ, riêng tượng cao 1m87 (bằng cái Linga của chị Toet), thể hiện Đức Phật đang ngồi thuyết Pháp trên toà sen. Toà sen cao và bệ tượng tạo thành một h́nh tháp nhiều tầng gây cảm giác như đang nâng bổng Đức Phật lờn. Dỏng ngồi của Phật thanh thoát, thư giăn. Đường cong chạy từ cổ dọc theo sống lưng cộng với khuôn mặt thoát tục gợi đến cái đẹp và sự dịu dàng phi giới tính. Toàn bức tượng cho ấn tượng về sự đốn ngộ cao siêu và tâm hồn tĩnh tại Cũng rất thoát tục và lăng mạn, con rồng uốn lượn mềm mại và có một cái đầu mơ màng, những khúc uốn nhỏ dần về phía đuôi.

    Rồng thời Lư có bốn chân, loại lớn có vẩy. Nó rất khác con rồng thô to và mạnh thời Trần, cũng rất khác con rồng đường bệ của Trung Hoa. Thật thú vị khi con vật biểu tượng của Hoàng đế mà lại tỏ ra mơ mộng và đáng yêu như thế. Nó chứng tỏ cái chất vị tha Phật giáo và cái lăng mạn, cái Triết lư đă thấm sâu vào thời đại ấy, từ nhà vua đến thứ dân, nhà sư và nghệ sĩ. Một thời đại thật là đẹp !

    Mụ típ rồng triều Lư đă xuất hiện trên nhiều loại trang trí bố cục h́nh tṛn, h́nh cánh sen, hỡnh lỏ đề, h́nh chữ nhật. Hầu như ở đâu, không gian nào, những con rồng luụn cú tư thế và cấu trúc giống nhau. Nếu nhận xét một cách tương đối kỹ tính như PGS Nguyễn Du Chi, th́ có thể chia rồng thời Lư làm hai loại cỏ ngẫng và cổ rụt. Phong cách thời Lư, về đề tài liên quan đến rồng và bố cục h́nh trang trí rồng, được các đời sau học theo và giữ ǵn.

    Thời Lư không chỉ thành công trong độc lập tự chủ, chống ngoại xâm về quân sự, chính trị, mà c̣n rất thành công trong Văn hoá nghệ thuật. Mỹ thuật thời Lư được đặt lên hàng đầu so với các triều đại khác bởi tính độc đáo và tinh tế của nó, bởi cái hiền triết sâu lắng của nó. Có lẽ nguyên nhân sâu xa là ở cuộc sống thanh b́nh, một thời gian dài không có chiến tranh, đô hộ.



    Rồng Việt NamCon rồng Việt Nam là trang trí kiến trúc, điêu khắc và hội họa h́nh rồng mang bản sắc riêng, theo trí tưởng tượng của người Việt. Nó khác với rồng trong trang trí kiến trúc và hội họa Trung Hoa và ở quốc gia khỏc. Cỏc di tích về con rồng Việt Nam c̣n lại khỏ ớt do các biến động thời gian và sự Hán hóa của triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam, nhà Nguyễn.
    [sửa] Lịch sử
    Người Việt sống tại vùng sông nước nên từ thời xa xưa họ đă tôn sùng cá sấu như một con vật linh thiêng, vỡ chỳng đại diện cho sự trù phú và sức mạnh, thời kỳ này vùng đất người Việt sống c̣n rất nhiều cá sấu. Họ đă thần thánh hóa loài cá sấu lên thành con Giao Long mà người Trung Hoa gọi sau này, một cách thức tô điểm cho h́nh hài con cá sấu nhiều chi tiết tưởng tượng và cũng nhiều ư nghĩa hơn. Con rồng này tồn tại cùng tâm thức của người Việt trong suốt thời Văn Lang - Âu Lạc. Rất có thể từ con Giao Long này mà người Trung Hoa đă tạo ra con rồng Trung Hoa của họ.
    Trong cả thiên niên kỉ bị đô hộ bởi Trung Hoa, trong hoàn cảnh chung của chính sách Hỏn húa, h́nh ảnh con rồng Việt Nam phát triển theo các xu hướng giống với con rồng của người Hán. Đến khi giành được độc lập, thời kỳ nhà Lư lên nắm quyền, đặt tên nước là Đại Việt (để sánh ngang với Đại Tống của Trung Hoa), Việt Nam đă có con rồngcho riêng ḿnh và khác với con rồng Trung Quốc. Văn hóa [Đại Việt] nói chung, trong đó có mỹ thuật đă khẳng định được đẳng cấp và sự độc lập trong nghệ thuật biểu hiện của ḿnh. Xuất hiện từ việc trang trí kinh thành lộng lẫy, chùa chiền đồ sộ ., con rồng Việt Nam được tạo nặn từ chất liệu văn hóa dân tộc, kết hợp với yếu tố văn hóa ChămĐông Nam Á và văn hóa Trung Hoa.[SUP][[/SUP]
    [HR][/HR]​Rồng Việt Nam

    Con rồng là một h́nh tượng có vị trí đặc biệt trong văn hóa, tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam. Rồng là tượng trưng cho quyền uy tuyệt đối của các đấng Thiên Tử (Bệ Rồng, Ḿnh Rồng), là linh vật đứng vào hàng bậc nhất trong tứ linh Long, Lân, Quy, Phụng. Dân tộc ta có truyền thuyết về con Rồng từ rất sớm bởi nó gắn liền với mây, mưa, với việc trồng lúa nước, với sự tích Con Rồng Cháu Tiên .
    Mỗi người dân Việt Nam đều mang khái niệm từ thời mở nước cha rồng mẹ tiên, với huyền sử Hùng Vương con của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Hùng Vương đă dạy dân tục xăm ḿnh h́nh Rồng ở ngực, bụng và hai đựi (Thỏi Long) để không bị loài thuỷ quái xâm hại. Rồng tượng trưng cho thần linh, mây, mưa, sấm chớp. H́nh tượng Rồng c̣n xuất hiện trong văn hoỏ Đụng Sơn, Âu Lạc với những h́nh trang trí chữ S và tục thờ tứ pháp.

    Qua thời kỳ Bắc thuộc dài đằng đẵng, con rồng Việt Nam xuất hiện rơ nét dưới thời Lư. H́nh ảnh Rồng bay lên Thăng Long tượng trưng cho khí thế vươn lên của dân tộc, được đem đặt cho đất đế đô. Rồng thời Lư tượng trưng cho mơ ước của cư dân trồng lúa nước nên luôn luôn được tạo trong khung cảnh của nước, của mây cuộn.

    Triều Lư dựng đô, vua Thỏi Tụng cho mở hàng quán chen chúc sát tới đền rất huyên náo. Vua thấy đền cổ bèn sửa sang lại làm nơi thờ thần. Đến đêm, thần hiển linh nổi trận gió Bắc rất to, các nhà bên đều đổ hết, chỉ c̣n đền thờ. Vua mừng nói: Đó là thần Long Đỗ coi việc nhân gian. H́nh Rồng thời Lư được trang trí ẩn hiện trong hỡnh lỏ đề, cánh sen giỡn sóng, ở bệ tượng đức Phật Adiđà, Quan Âm . Rồng thời Lư có thân h́nh tṛn trặn, uốn lượn nhiều khúc, dài và nhỏ dần về phía đuôi, có dáng dấp gần gũi với loài rắn nhưng đầu Rồng có tỷ lệ cân đối so với thơn, chơn nhỏ, mảnh, thường là 3 ngón. Rồng thời Lư nhẹ nhàng, thanh thoát. Những khúc uốn h́nh chữ S gần như không thể thiếu. Rồng được trang trí trong chựa thỏp, cung điện có đầu ngẩng cao, mồm há rộng giỡn ngọc, mào h́nh ngọn lửa hướng về phía trước, tai bờm, râu rồng vút nhỏ dần chuyển động như bay lượn tạo nên bố cục chặt chẽ. Nh́n tổng thể, Rồng Lư tạo ra vẻ đẹp thẩm mỹ thuần khiết, cách điệu sống động như một tuyên ngôn độc lập có giá trị đến ngày nay về mỹ thuật của Rồng Đại Việt.

    Rồng thời Trần tuy có thừa kế những yếu tố cơ bản của thời Lư nhưng đó cú những biến đổi về chi tiết. Dạng tự chữ S dần dần mất đi hoặc biến dạng thành h́nh con, đồng thời xuất hiện thêm hai chi tiết là cặp sừng và đôi tay. Đầu rồng uy nghi và đường bệ với chiếc mào lửa ngắn hơn. Thân rồng tṛn lẳn, mập mạp, nhỏ dần về phía đuôi, uốn khúc nhẹ, lưng vừng hỡnh yên ngựa. Đuôi rồng có nhiều dạng, khi thỡ đuụi thẳng và nhọn, khi th́ xoắn ốc. Các vảy cũng đa dạng. Có vảy như những nửa h́nh hoa tṛn nhiều cánh đều đặn, có vẩy chỉ là những nét cong nhẹ nhàng.

    Rồng thời Lê thay đổi hẳn. Rồng không nhất thiết là một con vật ḿnh dài uốn lượn đều đặn nữa mà ở trong nhiều tư thế khác nhau. Đầu rồng to, bờm lớn ngược ra sau, mào lửa mất hẳn, thay vào đó là một chiếc mũi to. Thân rồng lượn hai khúc lớn. Chơn cú năm móng sắc nhọn quắp lại dữ tợn. Rồng thời Lê tượng trưng cho quyền uy phong kiến. Cũng chính bắt đầu từ thời đại này xuất hiện quan niệm tứ linh (bốn con vật thiêng) tượng trưng cho uy quyền của vương triều Rồng đứng đầu trong tứ linh. Ba vật thiêng kia là Lân (tượng trưng cho sự thái b́nh và minh chúa), Quy (con rùa - tượng trưng sự bền vững của xă tắc) và Phụng (tượng trưng cho sự thịnh vượng của triều đại).

    Rồng thời Trịnh Nguyễn vẫn c̣n đứng đầu trong bộ tứ linh nhưng đă được nhân cách hóa, được đưa vào đời thường như h́nh rồng mẹ có bầy rồng con quây quần, rồng đuổi bắt mồi, rồng trong cảnh lứa đôi.

    Con rồng thời Nguyễn trở lại vẻ uy nghi tượng trưng cho sức mạnh thiêng liêng. Rồng được thể hiện ở nhiều tư thế, ẩn ḿnh trong đám mây, hoặc ngậm chữ thọ, hai rồng chầu mặt trời, chầu hoa cúc, chầu chữ thọ . Phần lớn ḿnh rồng không dài ngoằn mà uốn lượn vài lần với độ cong lớn. Đầu rồng to, sừng giống sừng hươu chĩa ngược ra sau. Mắt rồng lộ to, mũi sư tử, miệng há lộ răng nanh. Vảy trên lưng rồng có tia, phân bố dài ngắn đều đặn. Râu rồng uốn sóng từ dưới mắt ch́a ra cân xứng hai bên. H́nh tượng rồng dùng cho vua có năm móng, c̣n lại là bốn móng.

    H́nh tượng Rồng c̣n huyền bí về long mạch, thuyết phong thủy nơi đất phát đế vương mộ táng. Chuyện mộ táng hàm Rồng, chúa Trịnh phát tích, sách Trung Hưng Thực Lục viết: Ông già Tống Sơn giỏi phong thủy thấy Trịnh Liễu cầy ruộng lại siêng học hành, đức hạnh bốn giỳp đặt mộ nơi huyệt khí quư xứ Nanh Lợn. Đêm ấy trời đất chuyển động, mưa gió nổi to . trên mộ có vầng sáng ánh trăng, xa trụng cú Rồng đen ấp lên trên. Tống Vương nói: Rồng vàng là đế, rồng đen là vương Quả nhiên, đến 4 đời sau th́ nhà Trịnh phát vượng

    Rồng tượng trưng cho sự phồn vinh và sức mạnh của dân tộc, nhanh chóng trở thành h́nh tượng biểu hiện uy quyền của Nhà nước phong kiến, chỉ dùng nơi trang trọng nhất của cung vua, hay những công tŕnh lớn của quốc gia. Đó cú thời triều đ́nh phong kiến chạm khắc h́nh rồng trên nhà cửa hay đồ dùng gia đ́nh. Nhưng sức sống của con Rồng c̣n dẻo dai hơn khi nó vượt ra khỏi kinh thành, đến với làng quê dân dă. Nó leo lên đ́nh làng, ẩn ḿnh trờn cỏc b́nh gốm, cột đ́nh, cuộn tṛn trong ḷng bát đĩa hay trở thành người gác cổng chùa. Rồng c̣n có mặt trong những bức tranh hiện đại phương Đông, biểu hiện một mối giao ḥa giữa nền văn hóa xa xưa bằng những ư tưởng mới mẻ kỳ lạ. Rồi con Rồng lại trở về với niềm vui dân dă trên chiếc bánh trung thu của mọi nhà.

    Quả thật, h́nh tượng Rồng rất thân thiết trong tâm thức người dân Việt Nam. Các triều đại vua chúa xưa đưa múa Rồng truyền thống trở thành loại h́nh múa nghệ thuật (múa tứ linh Lờ-Trịnh). Rồng trong đời sống dân gian được thể hiện rất phong phú: cú mỳa Rồng trờn sơn đỡnh trong lễ hội, tṛ chơi trẻ con Rồng rắn lên mây, h́nh ảnh Rồng xuất hiện trong tranh dân gian Đông Hồ . Trên đất nước cũng có nhiều địa danh tên Rồng như: Vịnh Hạ Long, cầu Hàm Rồng, sông Cửu Long .

    Hiện nay, h́nh tượng con rồng tuy không c̣n tính chất thiêng liêng, tối thượng nhưng vẫn được đưa vào trang trí cho các công tŕnh kiến trúc, hội họa, chạm, khắc nghệ thuật . Dù ở bất cứ thời điểm nào, con rồng vẫn là một phần trong cuộc sống văn hóa của người Việt
    Rồng Với người Việt NamCon rồng Việt Nam là trang trí kiến trúc, điêu khắc và hội họa h́nh rồng mang bản sắc riêng, theo trí tưởng tượng của người Việt.Rồng là con thằn lằn. Nó khác với rồng trong trang trí kiến trúc và hội họa Trung Hoa và ở quốc gia khỏc. Cỏc di tích về con rồng Việt Nam c̣n lại khỏ ớt do các biến động thời gian và sự Hán hóa của triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam, nhà Nguyễn. Con rồng ở Việt Nam cũng tuỳ theo thời kỳ. Như h́nh ở trên là con rồng thời Lư, thể hiện sự nhẹ nhàng[SUP][1][/SUP]. C̣n con rồng thời Trần th́ mạnh mẽ hơn, thân h́nh to và khoẻ khoắn, v́ thời trần 3 lần chống quân Nguyên-Mông.[SUP][1][/SUP]
    Rồng Việt Nam luụn cú một mụ-tớp rơ ràng đặc trưng đó là:

    Thân rồng uốn h́nh sin 12 khúc, đại diện 12 tháng trong năm. Thân mềm mại uốn lượn thể hiện sự biến hóa. Trên lưng có vây nhỏ liền mạch và đều đặn.
    Đầu rồng có bờm dài, râu cằm, không sừng. Mắt lồi to, hàm mở rộng có răng nanh ngắt lên. Đặc biệt là cái mào ở mũi, sun sóng đều đặn chứ không phải là cái mũi thú như rồng Trung Hoa. Lưỡi mảnh rất dài.
    Miệng rồng luôn ngậm viờn chơu (ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc rồng hay cầm ngọc bằng chân trước).
    [​IMG]
    Thường được tạc vào đá như biểu tượng linh thiêng canh giữ chùa chiền, lâu đài.
    [sửa] Rồng với người Trung QuốcTuy xếp hàng thứ tư trong tứ linh nhưng rồng có ảnh hưởng không nhỏ trong đời sống tâm linh của người dân Trung Quốc. Cuối năm 1987 tại huyện Bộc Dương (濮陽) tỉnh Hà Nam, người ta khai quật được một con rồng bằng gốm, giám định là có 6 ngàn năm tuổi.
    1. Như vậy điều này càng chứng minh thêm sự sùng bái rồng trong xă hội nguyên thủy chiếm địa vị trọng yếu trong tín ngưỡng linh vật hay vật tổ (totemism: Đồ đằng sùng bái 圖騰崇拜)
    2. Và liên quan mật thiết đến chính trị, kinh tế, văn học nghệ thuật, phong tục dân gian từ đời Hạ, đời Thương và ảnh hưởng này kéo dài mấy ngàn năm không suy giảm.
    3. Rồng luôn hiện hữu trong các chuyện thần thoại Trung Quốc, trong các cổ vật, tranh vẽ, lời búi trờn mai rùa xương thú khai quật được, và trong các thư tịch cổ như Chu Dịch, Sơn Hải Kinh, Tả Truyện, v.v . Rồng chữ Hán viết là 龍 với các cách phiên thiết như:
    a. Khang Hi 康熙: lực chung thiết 力鍾切, như vậy đọc là lung; lô dung thiết âm lung 盧容切音籠, như vậy cũng đọc là lung.
    b. Chu Dịch Đại Từ Điển 周易大辭典 (căn cứ Thuyết Văn Giải Tự 說文解字): lực chung thiết chung vận 力鍾切鍾韻, như vậy đọc là lung.
     
Đang tải...