Tiểu Luận Một vài suy nghĩ về việc chuyển đổi hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp ở Việt Nam

Thảo luận trong 'Bảo Hiểm' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    170
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    MỤC LỤC
    Một số từ viết tắt 1
    LỜI MỞ ĐẦU 2
    NỘI DUNG 4
    Chương I: Lý luận chung về BHNT và hợp đồng BHNT 4
    I.Bảo hiểm nhân thọ 4
    1.Khái niệm 4
    2.Đặc điểm 4
    II.Hợp đồng BHNT 5
    1.Khái niệm về hợp đồng BHNT 5
    2.Đặc điểm của hợp đồng BHNT. 7
    3. Tính chất của hợp đồng bảo hiểm 8
    4.Thiết lập và thực hiện HĐBHNT. 9
    Chương II :Vấn đề huỷ bỏ HĐBHNT 13
    I. Khái niệm huỷ bỏ HĐBHNT. 13
    II. Tình hình huỷ bỏ HĐBHNT hỗn hợp ở VN hiện nay. 13
    III. Các biện pháp hỗ trợ khách hàng mà doanh nghiệp BH áp dụng nhằm hạn chế tình trạng huỷ bỏ HĐBHNT 14
    Chương III: Một vài suy nghĩ về việc chuyển đổi HĐBHNT hỗn hợp 15
    I.Một số băn khoăn lo ngại của khách hàng khi tham gia BHNT. 15
    II. Nội dung của phương thức chuyển đổi hợp đồng BHNT hỗn hợp. 15
    1. Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp. 15
    2. Lý do chuyển đổi. 17
    3. Nội dung của phương thức chuyển đổi. 17
    III.Ưu và nhược điểm của phương án. 20
    1.Ưu điểm của phương án. 20
    2. Nhược điểm của phương án. 20
    LỜI KẾT 21
    Tài liệu tham khảo 22


    LỜI MỞ ĐẦU
    Ngành bảo hiểm là một ngành dịch vụ, do đó SPBH cũng có các đặc điểm chung của các sản phẩm dịch vụ như tính vô hình, tính không thể tách rời và không thể cất trữ được, tính không đồng nhất và không được bảo hộ bản quyền.Ngoài ra SPBH còn có đặc điểm riêng là "sản phẩm không mong đợi" sản phẩm có chu trình kinh doanh đảo ngược và sản phẩm có hiệu quả xê dịch. Nếu như đa số các sản phẩm hữu hình được trưng bày trong các cửa hàng, được vẽ trên các biển hiệu, tờ rơi , quảng cáo, được phô diễn công dụng trước người mua tiềm năng Do đó khách hàng dễ dàng nhận thấy sự tồn tại của sản phẩm. Khi mua SPBH người mua chỉ nhận được một lời hứa, lời cam kết về những đảm bảo vật chất trước các rủi ro. Tính vô hình của SPBH làm cho việc giới thiệu, chào bán sản phẩm trở nên khó khăn hơn.Như vậy để ký được một hợp đồng BH nói chung và BHNT nói riêng không dễ, nhưng khi hợp đồng đã ký rồi thì việc duy trì được hợp đồng đó cũng là một vấn đề lớn mà các công ty hoặc doanh nghiệp bảo hiểm cần phải chú ý.Hiện nay, số lượng hợp đồng BH nói chung và hợp đồng BHNT nói chung bị huỷ trước thời hạn rất nhiều, việc huỷ hợp đồng này gây thiệt hại cho người tham gia, cho các DNBH và đại lý của hợp đồng đó. Khi hợp đồng BH bị huỷ trước thời hạn thì các bên có liên quan đến hợp đồng bị thiệt hại như thế nào? Có cách gì để giảm bớt mức thiệt hại cho các bên có liên quan tới hợp đồng bảo hiểm không? Để phần nào giải đáp được thắc mắc trên trong phạm vi một đề án em xin chọn đề tài "Một vài suy nghĩ về việc chuyển đổi hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp ở Việt Nam". Bố cục của đề án gồm 3 phần:
    Phần I: Tổng quan về BHNT và hợp đồng BHNT.
    Phần II: Vấn đề huỷ bỏ HĐBHNT ở Việt Nam trong thời gian qua.
    Phần III: Một vài suy nghĩ về việc chuyển đổi HĐBHNT hỗn hợp.
    NỘI DUNG
    Chương I: Lý luận chung về BHNT và hợp đồng BHNT
    I.Bảo hiểm nhân thọ
    1.Khái niệm
    BHNT là sự cam kết giữa người bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm,mà trong đó người bảo hiểm sẽ trả cho người tham gia bảo hiểm hoặc người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm một số tiền nhất định khi có những sự kiện đã định trước xảy ra (người được bảo hiểm bị chết hoặc sống đến một thời điểm nhất định),còn người tham gia bảo hiểm phải nộp phí đầy đủ và đúng hạn.Nói cách khác,BHNT là quá trình bảo hiểm cho các rủi ro liên quan đến sinh mạng,cuộc sống và tuổi thọ của con người.
    2.Đặc điểm
    -BHNT vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi ro
    Đây là một trong những điểm khác biệt cơ bản giữa BHNT và BHPNT. Thật vậy, mỗi người mua BHNT định kỳ sẽ nộp một khoản tiền nhỏ(gọi là phí bảo hiểm) cho công ty BH, ngược lại các công ty BH có trách nhiệm trả một số tiền lớn( gọi là số tiền BH) cho người được hưởng quyền lợi BH khi có các sự kiện BH xảy ra.STBH được trả khi người được bảo hiểm đến một độ tuổi nhất định và ấn định trong hợp đồng. Hoặc số tiền này được trả cho thân nhân và gia đình người được bảo hiểm khi người này không may bị chết sớm ngay cả khi họ tiết kiệm được một khoản tiền rất nhỏ qua việc đóng phí bảo hiểm. Số tiền này giúp những người còn sổng trang trải những khoản chi phí cần thiết: Thuốc men, mai táng, chi phí giáo dục con cái Chính vì vậy BHNT vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi ro. Tính chất tiết kiệm ở đây thể hiện trong từng cá nhân, từng gia đình một cách thường xuyên có kế hoạch và có tính kỷ luật. Nội dung tiết kiệm khi mua BHNT khác với các hình thức tiết kiệm khác ở chỗ , người bảo hiểm đảm bảo trả cho người tham gia bảo hiểm hay người thân của họ một số tiền rất lớn ngay khi họ tiết kiệm được một số tiền nhỏ.Có nghĩa là,người được bảo hiểm không may gặp rủi ro trong thời hạn bảo hiểm đã được ấn định, những người thân của họ sẽ nhận được STBH hay những khoản trợ cấp từ công ty bảo hiểm điều này thể hiện tính chất rủi ro trong BHNT.
    - BHNT đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau của người tham gia bảo hiểm
    Mỗi mục đích thể hiện khá rõ trong từng loại hợp đồng.Chẳng hạn hợp đồng hưu trí đáp ứng yêu cầu của người tham gia những khoản trợ cấp đều đặn hàng tháng,từ đó góp phần ổn định cuộc sống của họ khi già yếu .Chính vì đáp ứng được nhiều mục đích khác nhau mà loại hình bảo hiểm này có thị trường ngày càng rộng và được rất nhiều người quan tâm.
    - Các loại hợp đồng trong bảo hiểm nhân thọ rất đa dạng và phức tạp
    Tính đa dạng và phức tạp trong các hợp đồng BHNT thể hiện ngay trong các sản phẩm của nó. Mỗi sản phẩm BHNT có nhiều loại hợp đồng khác nhau, chẳng hạn: Mỗi sản phẩm BHNT có nhiều loại hợp đồng khác nhau,mỗi hợp đồng lại có sự khác nhau về thời gian,STBH,phương thức đóng phí , đôi tuổi người tham gia
    - Phí bảo hiểm nhân thọ chịu tác động tổng hợp của nhiều nhân tố:độ tuổi người được bảo hiểm,tuổi thọ bình quân của con người,số tiền bảo hiểm, thời hạn tham gia,phương thức thanh toán
    - BHNT ra đời và phát triển trong điều kiện kinh tế -xã hội nhất định.
    + Điều kiện về kinh tế như: tốc độ tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc nội, mức thu nhập của dân cư, tỷ lệ lạm phát của đồng tiền
    + Điều kiện về xã hội: dân số, tuổi thọ bình quân của người dân,trình độ học vấn .
    Ngoài điều kiện kinh tế - xã hội, thì môi trường pháp lý cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự ra đời và phát triển của BHNT.
    II.Hợp đồng BHNT
    1.Khái niệm về hợp đồng BHNT
    Hợp đồng BHNT là sự cam kết giữa hai bên ,theo đó bên nhận bảo hiểm (công ty BHNT)có trách nhiệm và nghĩa vụ chi trả cho bên được bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra ,còn bên được bảo hiểm có trách nhiệm và nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm như đã thoả thuận theo quy định của pháp luật .
    - Bên nhận bảo hiêm chính là các công ty BHNT.Sau khi đã cam kết nhận bảo hiểm ,có trách nhiệm và nghĩa vụ chủ yếu của công ty là chi trả STBH khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra đối với người được bảo hiểm .Sự kiện bảo hiểm trong BHNT thường bao gồm :
    + tử vong
    + hết hạn hợp đồng
    + sống đến độ tuổi nhất định .
    Bên nhận bảo hiểm không được phép huỷ bỏ hay thay đổi các điều khoản trong hợp đồng và cũng không được khiếu nại đòi phí bảo hiểm .
    - Bên được bảo hiểm trong hợp đồng BHNT có thể có 3 người sau đây :
    + Người được bảo hiểm là là người mà sinh mạng và cuộc sống của họ đượcbảo hiểm theo các điều kiện của hợp đồng .Người được bảo hiểm có thể là người đã trưởng thành có đủ năng lực pháp lý để tự ký hợp đồng cho mình và cũng có thể là người chưa đủ tuổi thành niên phải giao tên của mình cho người đứng ra ký kết hợp đồng
    + Người tham gia bảo hiểm là người đứng ra yêu cầu bảo hiểm ,thoả thuận và ký kết hợp đồng. Người tham gia bảo hiểm phải đảm bảo quy định của pháp luật về năng lực pháp lý. Trong các hợp đồng bảo hiểm cá nhân người tham gia bảo hiểm và người được bảo hiểm là hai người khác nhau chỉ khi người được bảo hiểm chưa đến tuổi vị thành niên hoặc trong các hợp đồng bảo hiểm theo nhóm người được bảo hiểm và người tham gia cũng là hai người khác nhau.Người tham gia bảo hiểm có quyền yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm.
    + Người được hưởng quyền lợi bảo hiểm là người được nhận STBH và các khoản trợ cấp do công ty BH thanh toán như đã nêu rõ trong hợp đồng. Người được hưởng quyền lợi bảo hiểm do người tham gia bảo hiểm chỉ định .Nếu việc chỉ địn không rõ ràng,STBH sẽ được giải quyết theo luật thừa kế. Người đượchưởng quyền lợi bảo hiểm thường là người được bảo hiểm, chỉ là người khác khi người được bảo hiểm bị chết. Xác định rõ được người được hưởng quyền lợi bảo hiểm là hết sức quan trọng vì tránh được những tranh chấp , khiếu nại
    - Người tham gia bảo hiểm, người được bảo hiểm, người thụ hưởng phải có quan hệ huyết thống,nuôi dưỡng, cấp dưỡng hoặc vợ chồng.
    - Ngưòi tham gia bảo hiểm có trách nhiệm khai báo trung thực về những rủi ro và tình trạng sức khoẻ của mình để doanh nghiệp BHNT xác định chính xác mức phí. Truờng hợp nếu họ phát hiện ra sự thay đổi về những rủi ro và tình trạng sức khoẻ của mình dẫn tới việc thay đổi phí phải thông báo cho doanh nghiệp BHNT để họ điều chỉnh lại mức phí cho phù hợp.
    2.Đặc điểm của hợp đồng BHNT.
    - Hợp đồng BHNT rất đa dạng và do các công ty bảo hiểm thực hiện đa dạng hoá sản phẩm để đáp ứng các nhu cầu phong phú của người tham gia. Các quy định trong hợp đồng có nhiều điểm khác nhau ở mỗi nước.Tuy vậy, nó đều có những điểm chung phải tuân thủ như các hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự khác như: Trách nhiệm, quyền lợi
    - Hợp đồng BHNT có thể thay đổi được tuỳ theo yêu cầu của người tham gia bảo hiểm. Chẳng hạn: Bảo hiểm tử kỳ cố định có thể chuyển thành một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ trường sinh, bảo hiểm tử kỳ tái tục có thể tái tục vào ngày kết thúc mà không cần bằng chứng nào về sức khoẻ Tuy nhiên sự chuyển đổi này không nhằm mục đích trục lợi bảo hiểm.
    - Hợp đồng BHNT có thể dùng làm vật thế chấp vay vốn hoặc người tham gia có thể ứng trước một khoản tiền nhất định giống như công ty công ty bảo hiểm cho họ vay tiền. Khoản tiền ứng trước này được các DNBH lấy trong dự phòng phí để thực hiện
    - Hợp đồng BHNT nếu bị huỷ bỏ thì sẽ nhận được một số tiền nhất định gọi là giá trị hoàn lại từ phía doanh nghiệp bảo hiểm nếu người tham gia đóng phí đủ từ hai năm trở lên.
    - Hợp đồng BHNT thường là những hợp đồng có giá trị lớn
    - Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là hợp đồng dài hạn vì vậy chủ yếu được ký kết với từng cá nhân. Việc ký kết theo nhóm rất ít và nếu có chủ yếu là loại bảo hiểm tử vong có kỳ hạn xác định.
    - Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có thể chuyển nhượng giữa các chủ hợp đồng với điều kiện chủ hợp đồng mới phải có quan hệ pháp luật với người được bảo hiểm,người thụ hưởng và được doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận.
    3. Tính chất của hợp đồng bảo hiểm
    Hợp đồng BH có những tính chất chung trong khuôn khổ của luật pháp, ngoài ra còn có một số tính chất riêng biệt do đặc điểm kinh tế – kỹ thuật của ngành BH chi phối.
    - HĐBH là hợp đồng song vụ, mở sẵn : có nghĩa là các bên ký kết hợp đồng đều có quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia và ngược laị. Quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng bảo hiểm đều quy định rõ và thể hiện ở các điều khoản bảo hiểm, như là đã mở sẵn. Bên tham gia bảo hiểm sau khi xem xét thấy phù hợp với nhu cầu của mình thì ký kết và ngược lại.
    - HĐBH mang tính tương thuận : với tính chất này chỉ cần hai bên chấp thuận là đi đến ký kết. Việc đi đến ký kết hợp đồng dựa trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng trong khuôn khổ pháp luật.
    - HĐBH là hợp đồng có bồi thường ( phải trả tiền) : quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên tham gia hợp đồng thể hiện mối quan hệ tiền tệ rất rõ nét, tức là người tham gia bảo hiểm phải trả tiền bằng cách nộp phí bảo hiểm mới được đảm bảo có quyền lợi kinh tế từ doanh nghiệp bảo hiểm. Vì vậy dù hợp đồng đã ký kết , nhưng người tham gia bảo hiểm chưa nộp phí, thì hợp đồng vẫn chưa có hiệu lực và người tham gia chưa đòi hưởng quyền lợi của mình.
    - HĐBH là hợp đồng may rủi : trong thời hạn có hiệu lực, nếu sự kiện bảo hiểm xảy ra, bên tham gia bảo hiểm sẽ được DNBH bồi thường hoặc chi trả. Trái lại, nếu không xaỷ ra sự kiện bảo hiểm, mặc dù đã nộp phí bảo hiểm bên tham gia bảo hiểm vẫn không nhận được bất cứ một khoản chi hoàn trả nào từ phía DNBH. DNBH chấp nhận rủi ro từ phía người tham gia bảo hiểm đổi lại DNBH nhận được phí bảo hiểm. Nhưng rủi ro này mới tồn tại ở trạng thái tương lai, có thể xảy ra hoặc không xảy ra. Vì vậy không thể xác định được hiệu qủa khi ký kết hợp đồng và người ta thường quan niệm HĐBH là hợp đồng may rủi.
    4.Thiết lập và thực hiện HĐBHNT.
    a) Thiết lập hợp đồng
    - Nguyên tắc : khi thiết lập HĐBH phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
    + nguyên tắc công bằng đôi bên cùng có lợi : nguyên tắc này đòi hỏi người tham gia bảo hiểm và DNBH phải thiết lập hợp đồng với điều kiện tôn trọng lợi ích của mỗi bên. Các bên được hưởng quyền lợi với điều kiện phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định. Nguyên tắc này thể hiện tính song vụ của hợp đồng bảo hiểm.
    + Nguyên tắc bàn bạc thống nhất : đây là nguyên tắc đòi hỏi các bên tham gia phải tỏ rõ ý muốn của mình khi thiết lập hợp đồng và phải đạt được sự thống nhất về ý muốn đó. Có như vậy mối quan hệ giữa các bên mới đảm bảo lâu dài và hạn chế việc huỷ bỏ hợp đồng trước thời hạn.
    + Nguyên tắc tự nguyện : Tự nguyện thiết lập hợp đồng bảo hiểm có nghĩa là bên này không được dựa vào ưu thế kinh tế của mình hoặc ý muốn chủ quan của mình để áp đạt cho bên kia, bắt ép bên kia xác lập hợp đồng.
    + Nguyên tắc không làm tổn hại lợi ích chung của xã hội : Lợi ích chung của xã hội là lợi ích cộng đồng, lợi ích căn bản của mọi người trong xã hội mà các đạo luật khác quy định. Hai bên tham gia trong hợp đồng bảo hiểm đều phải cùng nhau bảo vệ lợi ích này.
    - Trình tự thiết lập hợp đồng bảo hiểm
    + Khai báo rủi ro : Cơ sở pháp lý đầu tiên để thiết lập hợp đồng bảo hiểm chính là những yêu cầu , đề nghị của người tham gia bảo hiểm. Những yêu cầu, đề nghị này được thực hiện bởi người tham gia bảo hiểm khai báo rủi ro và cung cấp những thông tin cần thiết có liên quan cho DNBH theo một phiếu in sẵn.
    + Chấp nhận rủi ro bảo hiểm : sau khi DNBH nhận được giấy yêu cầu được bảo hiểm, qua qúa trình xét duyệt thấy phù hợp với điều kiện bảo hiểm, DNHBH sẽ đồng ý chấp nhận bảo hiểm và đóng dấu vào giấy yêu cầu bảo hiểm đó. Và như vậy chứng tỏ DNBH đã chấp nhận cam kết.
    + Thoả thuận về việc nộp phí bảo hiểm : sau khi chấp nhận bảo hiểm, hai bên còn phải thoả thuận với nhau về việc nộp phí bảo hiểm.
    + Cấp đơn bảo hiểm hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm : Sau khi DNBH ký tên, đóng dấu chứng nhận vào giấy yêu cầu bảo hiểm, tức là HĐBH đã lập xong. Dựa vào hợp đồng DNBH phải kịp thời cấp đơn cho người tham gia bảo hiểm.
    Đơn bảo hiểm, giấy chứng nhận bảo hiểm là văn bản pháp lý, là bằng chứng của việc giao kết hợp đồng, song chúng chỉ đề cập đến những thông tin cơ bản, vắn tắt về HĐBH. Khi DNBH cấp đơn và giấy chứng nhận bảo hiểm là bằng chứng hoàn thành toàn bộ trình tự thiết lập HĐBH.
    b) Thực hiện HĐBHNT.
    *Quyền và nghĩa vụ của bên tham gia bảo hiểm.
    - Bên tham gia bảo hiểm có quyền:
    + Lựa chọn doanh nghiệp để mua BH.
    +Yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm giải thích rõ các điều kiện, điều khoản bảo hiểm,cấp đơn bảo hiểm hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...