Luận Văn Một số ý kiến về kiểm toán độc lập tại Việt Nam

Thảo luận trong 'Kinh Tế Chính Trị' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Một số ý kiến về kiểm toán độc lập tại VN

    lời nói đầu
    Ngày nay, nền kinh tế của nước ta có nhiều biến đổi to lớn. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì lượng thông tin được phát ra từ nền kinh tế cũng ngày càng phức tạp. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế và sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt thì để có được thông tin phục vụ cho những quyết định quản lý, đầu tư vốn của những người sử dụng thông tin ngày một khó khăn.Bên cạnh đó, nạn tham ô, tham nhũng bòn rút ngân sách của nhà nước cũng như trong doanh nghiệp bằng nhiều thủ đoạn khác nhau và ngày càng tinh vi hơn thì sự quản lý của nhà nước đó là vai trò của kiểm tra và thanh tra nhà nước không còn phát huy tác dụng đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Trong khi đó nó lại là đối tượng quan tâm của nhiều người trong nền kinh tế bao gồm cả nhà quản lý, các nhà đầu tư , người lao động . Xuất phát từ nhu cầu thực tế đó mà kiểm toán độc lập đã xuất hiện ở nước ta vào năm 1991 với bằng chứng là sự ra đời của 2 công ty thực hiện dịch vụ kiểm toán đó là công ty kiểm toán Việt Nam (VACO) và công ty dịch vụ tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán (AASC). Với thời gian tồn tại còn ngắn ngủi song kiểm toán độc lập ở nước ta cũng đã đạt được những thành tựu bước đầu góp phần tạo cho môi trường kinh tế của nước ta được an toàn hơn. Tuy nhiên, vì nó là một khoa học mới ở nước ta vì vậy mà nó đòi hỏi phải có thời gian để tự hoàn thiện dần. Do vậy mà trong những bước đi ban đầu không tránh khỏi những sai sót vấp váp đòi hỏi phải có sự điều chỉnh dần dần. Đây là vấn đề được để cập nhiều hiện nay, và rất cần thiết vì vậy mà tôi chọn đề tài: “Một số ý kiến về kiểm toán độc lập tại Việt Nam hiện nay” làm đề tài cho chuyên đề tốt nghiệp lớp kê toán trưởng của mình. Phương pháp nghiên cứu sử dùng trong chuyên đề này là phương pháp vĩ mô, tiếp cận vấn đề môt cách tổng quát. Để làm rõ đề tài này chuyên đề của tôi gồm 2 phần chính:
    Phần 1: Những vấn đề lý luận chung về kiểm toán độc lập
    Phần2: Thực trạng và một số ý kiến đối với hệ thống kiểm toán độc lập ở nước ta

    Phần 1:
    những vấn đề lý luận chung về kiểm toán độc lập
    I.KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KIỂM TOÁN
    1. Lịch sử hình thành kiểm toán
    Trên thế giới, thuật ngữ kiểm toán đã có từ lâu, khi xuất hiện nhu cầu xác định tính trung thực, độ tin cậy của thông tin trên báo cáo tài chính và thực trạng tài sản của một chủ thể trong quan hệ kinh tế. Nhưng hoạt động kiểm toán chuyên nghiệp mới chỉ xuất hiện cách đây khoảng 300 năm, khởi đầu do cuộc Đại cách mạng công nghiệp. Do cuộc cách mạng này, đã có sự tách biệt giữa chức năng sở hữu và chức năng quản lý, đồng thời làm xuất hiện khái niệm chủ nhân và người quản lý. Vì vậy, làm nảy sinh nhu cầu kiểm tra để phát hiện các gian lận của người quản lý và người làm thuê. Đến năm 1844, nước Anh ban hành luật công ty Cổ Phần- là luật công ty cổ phần đầu tiên trên thế giới, cùng với đó là sự xuất hiện khái niệm kiểm toán viên. Từ đây, hình thức sơ khai về ngành nghề kiểm toán bắt đầu xuất hiện và các hiệp hội kiểm toán chính thức ra đời vào đầu thế kỉ 19. Kiểm toán có gốc từ Latinh “Audit”. Từ này có nguồn gốc từ Latinh “Audire” nghĩa là “nghe”. Hình ảnh ban đầu của kiểm toán cổ điển là việc kiểm tra được thực hiện bằng cách ngưòi soạn thảo báo cáo đọc to lên cho một bên độc lập nghe rồi nhận xét. Nếu kế toán có nhiệm vụ tổ chức hệ thống thông tin phục vụ cho quyết định kinh tế của các đối tượng có liên quan thì kiểm toán có trách nhiệm kiểm tra, đánh giá, đảm bảo và nâng cao độ tin cậy của các thông tin kế toán .
    2.Khái niệm và bản chất của kế toán
    a.Khái niệm:
    Ngày nay, trên thế giới có nhiều loại kiểm toán khác nhau, nhưng có thể hiểu một cách chung nhất về kiểm toán như sau: “Kiểm toán là quá trình các chuyên gia độc lập và có thẩm quyền, có kĩ năng nghiệp vụ thu thập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin có thể định lượng của một đơn vị nhằm mục đích xác nhận và báo cáo về mức độ phù hợp giữa các thông tin này với các chuần mực đã xây dựng”
    Theo quan điểm hiện đại thì phạm vi của kiểm toán rất rộng, nó có thể chia ra thành những lĩnh vực chủ yếu sau:
    + Đánh giá tính trung thực và hợp pháp của các tài liệu làm cơ sở pháp lý cho việc giải quyết các mối quan hệ kinh tế và tạo niềm tin cho những người quan tâm đến tài liệu kế toán .
    +Kiểm toán quy tắc hướng vào việc đánh giá tình hình thực hiện các chế độ, thể lệ, luật pháp của đơn vị được kiểm toán trong quá trình hoạt động.
    +Kiểm toán hiệu quả có đối tượng trực tiếp là các yếu tố, các nguồn lực trong từng loại hình nghiệp vụ kinh doanh. Kiểm toán loại này giúp ích trực tiếp cho việc hoạch định các chính sách hay phương hướng hoạt động kinh doanh của đơn vị được kiểm toán.
    +Kiểm toán hiệu năng được đặc biệt quan tâm ở khu vực công cộng nơi mà lợi ích và hiệu quả không giữ nguyên ý nghĩa như ở doanh nghiệp , nơi mà năng lực quản lý cần được đánh giá toàn diện và thường xuyên nhằm nâng cao hiệu năng quản lý của đơn vị được kiểm toán.
    b.Bản chất của kiểm toán
    Từ định nghĩa về kiểm toán cũng như những quan điểm về kiểm toán ta rút ra bản chất của kiểm toán như sau:
    Thứ nhất, kiểm toán là hoạt động độc lập, chức năng cơ bản của kiểm toán là xác minh, thuyết phục để tạo niềm tin cho những người quan tâm và những kết luận kiểm toán cho dù những kết luận này có thể hướng vào những mục tiêu khác nhau như tính trung thực của thông tin, tính quy tắc trong việc thực hiện các nghiệp vụ .Qua xác minh, kiểm toán viên bày tỏ ý kiến của mình về những lĩnh vực tương ứng.
    Thứ hai, kiểm toán phải thực hiện mọi hoạt động kiểm tra kiểm soát những vấn đề liên quan đến thực trạng tài sản, các nghiệp vụ tài chính và sự phản ánh của nó trên sổ sách kế toán cùng hiệu quả đạt được.Những công việc này tự nó đã gắn chặt vào với nhau.
    Thứ ba, nội dung trực tiếp của kiểm toán trước hết và chủ yếu là thực trạng hoạt động tài chính . Một phần của thực trạng này được phản ánh trên các bản khai tài chình và những tài liệu kế toán nói chung như hoá đơn báo cáo kết quả kinh doanh, sổ ghi tổng hợp kế toán .Tuy nhiên do giới hạn về trình độ kĩ thuật xử lý thông tin kế toán , có những phần thông tin quan trong khác về hoạt động chưa được phản ánh trên bất cứ tài liệu kế toán nào. Vì vậy để có thể xác minh các hoạt động kiểm toán hình thành hai phương pháp: Kiểm toán chứng từ và kiểm toán ngoài chứng từ.
    Thứ tư, kiểm toán là một khoa học chuyên ngành nên hoạt động này phải được thực hiện bởi những người có trình độ nghiệp vụ chuyên sâu về kiểm toán. Những người này phải có đủ tư cách về trình độ và phải có cả phẩm chất đạo đức nghề nghiệp.
    Thứ năm, hoạt động kiểm toán phải tuân theo khuôn khổ của pháp luật tức là người làm kiểm toán phải là người được pháp luật cho phép hành nghề và việc kiểm toán của kiểm toán viên phải phù hợp với những quy định của pháp luật.
    3.Chức năng và ý nghĩa của kiểm toán
    a.Chức năng
    Để hiểu sâu hơn về kiểm toán chứng ta xem xét đến chức năng của kiểm toán, từ bản chất của kiểm toán ta co thể thấy hai chức cơ bản của kiểm toán là xác minh và bày tỏ ý kiến .
    Chức năng xác minh: thực hiện này kiểm toán viên cần khẳng định sự trung thực của tài liệu , tính pháp lý của việc thực hiện các nghiệp vụ hay là việc lập các bản khai tài chính . Chức năng này là chức năng cơ bản nhất nó gắn liền với sự ra đời và phát triển của hoạt động kiểm toán. Bản thân chức năng này cũng không ngừng phát triển và được thực hiện tuỳ đối tượng cụ thể của kiểm toán. Lúc đầu nó chỉ là “chứng thực”các thông tin nhưng ngày nay do quan hệ kinh tế ngày càng phức tạp và yêu cầu pháp lý ngày càng cao nên việc xác minh cần tập trung vào hai mặt: Tính trung thực của các con số và tính hợp thức của các biểu mẫu phản ánh tình hình tài chính . Trong chức năng xác minh của kiểm toán, một trong những vấn đề đặt ra rất sôi nổi hiện nay là phát hiện gian lận và vi phạm trong tài chính . Đó là sự khác biệt giữa các chủ thể khác nhau về trách nhiệm phát hiện sai sót trong hoạt động kiểm toán của kiểm toán viên. Đối với người quan tâm đến thông tin thì họ cho rằng kiểm toán viên phải là người phát hiện tất cả các sai sót. Trong khi đó với những đơn vị được kiểm toán thì họ yêu cầu sao cho với mức chi phí thấp nhất mà đạt được kết quả tốt nhất. Còn đối với kiểm toán viên, người trực tiếp thực hiện cuộc kiểm toán thì cho rằng kiểm toán viên chỉ có trách nhiệm phát hiện những sai sót trọng yếu còn việc phát hiện gian lận là trách nhiêm thuộc nội bộ của đơn vị được kiểm toán. Nhưng điều quan trọng là kiểm toán phải tạo được niềm tin đối với những người quan tâm đến thông tin, do vậy để đảm bảo giữa chi phí và kết quả thu được kiểm toán viên cần phát hiện được những sai sót và gian lận trọng yếu.
    Chức năng bày tỏ ý kiến: Chức năng này được hiểu là kết luận về chất lượng thông tin và cả pháp lý của đối tượng được kiểm toán.Tuy nhiên đối với mỗi khách thể kiểm toán, mỗi loại kiểm toán thì chức năng này lại được thể hiện khác nhau
    b.Y nghĩa của kiểm toán
    Qua tìm hiểu về bản chất và chức năng cơ bản của kiểm toán chúng ta đã thấy tính tất yếu cho sự ra đời của kiểm toán.Nhưng mà ý nghĩa của kiểm toán mang lại là gì mà nó lại được những người quan tâm đến thông tin tin tưởng. Đối với mỗi đối tượng kiểm toán lại có một ý nghĩa riêng:
    -Thứ nhất: Đối với người quan tâm đến thông tin, kiểm toán mang lại niềm tin cho họ. Trong những người quan tâm đến thông tin bao gồm cơ quan quản lý nhà nước, các nhà đầu tư , các nhà quản lý, khách hàng và người lao động .
    +Đối với cơ quan quản lý nhà nước cần có thông tin để thực hiện điều tiết vĩ mô nền kinh tế bằng hệ thống pháp luật hay chính sách kinh tế nói chung và các thành phần kinh tế. Đặc biệt trong nền kinh tế nhiều thành phần thì Nhà nước không thể trực tiếp kiểm tra giám sát các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh vì vậy cơ quan quản lý cần có thông tin chính xác từ kiểm toán độc lập.
    +Đối với các nhà đầu tư , cần có thông tin tin cậy để trước hết có hướng đầu tư đúng đắn, sau đó điều hành sử dụng vốn đầu tư cũng như trong việc phân phối lợi nhuận và kết quả kinh doanh.
    +Các nhà quản trị doanh nghiệp và các nhà quản lý khác cần thông tin trung thực không chỉ trên các bản khai tài chính mà còn thông tin cụ thể về tài chính , về hiệu quả và hiệu năng của mỗi bộ phận để có những quyết định trong mọi giai đoạn quản lý kể cả tiếp nhận vốn liếng, chỉ đạo và điều chỉnh các hoạt động kinh doanh và hoạt động quản lý .những thông tin đó chỉ có được qua hoạt động kiểm toán khoa học.

     
Đang tải...