Luận Văn Một số ý kiến nhằm hoàn thiện kế toán tiền lương các khoản trích theo lương tại công ty May 2 – Hải

Thảo luận trong 'Lao Động' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Một số ý kiến nhằm hoàn thiện kế toán tiền lương các khoản trích theo lương tại Cty May 2 – Hải Dương


    Phần I
    Những vấn đề chung về kế toán tiền lương và các khoản Trích theo lương tại các doanh nghiệp sản xuất


    I. CHỨC NĂNG VÀ VAI TRÒ CỦA KẾ TOÁN TIỀN LƯƠNG VÀ CÁC KHOẢN TRÍCH THEO LƯƠNG
    I.1- Khái niệm và bản chất tiền lương
    1. Khái niệm
    Có rất nhiều quan điểm khác về tiền lương, tuỳ theo các thời kỳ khác nhau mà có cách nhìn nhận khác nhau.
    Theo quan điểm cũ: Tiền lương là một khoản thu nhập quốc dân được phân phối cho người lao động căn cứ vào số lượng lao động của mỗi người. Theo quan điểm này tiền lương vừa đựơc trả bằng tiền, vừa đựơc trả bằng hiện vật thông qua các chế độ nhà ở, y tế, giáo dục - Chế độ tiền lương theo quan điểm này mang tính bao cấp, bình quân nên không có tác dụng kích thích người lao động. Điều này có thể thấy trong thời kỳ bao cấp, nước ta đã hiểu và áp dụng tiền lương theo quan điểm này.
    Theo quan điểm mới: Tiền lương được hiểu là giá cả của sức lao động khi thị trường sức lao động đang dần được hoàn thiện và sức lao động trở thành hàng hoá. Nó được hình thành do sự thoả thuận hợp pháp giữa người lao động (người bán sức lao động) và người sử dụng sức lao động (người mua sức lao động ).Tiền lương hay giá cả sức lao động chính là số tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động theo công việc đã thoả thuận.
    C.Mác đã nói :"Để cho sức lao động phát triển theo một hướng nhất định thì phải có một sự giáo dục nào đó mà chính sự giáo dục này lại tồn tại một lượng hàng hoá ngang giá". Lượng hàng hoá ngang giá này chính là giá trị sức lao động. Giá trị sức lao động không phải là yếu tố bất biến mà nó phụ thuộc vào nhiều nguyên nhân, yếu tố khác nhau, cả chủ quan lẫn khách quan. Tuy vậy, trong mỗi giai đoạn nhất định của lịch sử, của XH thì sức lao động có thể giao động và giá trị của nó phụ thuộc vào quan hệ cung cầu sức lao động trên thị trường và trong cơ chế thị trường tiền lương phải tuân theo quy luật phân phối theo lao động là chủ yếu.
    2. Bản chất
    Như đã đề cập ở trên, tiền lương thực chất là giá cả sức lao động. Tuy vậy để thừa nhận điều này thì tiền lương đã trải qua ba quan điểm, quan điểm không đúng đắn làm méo mó ý nghĩa đích thực của nó.
    Nếu như trong nền kinh tế bao cấp thì tiền lương không phải là giá cả sức lao động. Vì nó không thừa nhận là hàng hoá - không ngang giá theo quy luật cung cầu. Thị trường sức lao động về danh nghĩa không tồn tại trong nền kinh tế quốc dân và phụ thuộc vào quy định của Nhà nước. Sang cơ chế thị trường buộc chúng ta phải có những thay đổi lại nhận thức về vấn đề này.
    Trước hết sức lao động là một thứ hàng hoá của thị trường yếu tố sản xuất. Tính chất hàng hoá của sức lao động có thể bao gồm không chỉ lực lượng lao động làm việc trong khu vực kinh tế tư nhân mà cả công chức làm việc trong lĩnh vực quản lý Nhà nước, quản lý XH. Tuy nhiên do đặc thù riêng trong sử dụng lao động của từng khu vực mà các quan hệ thuê mướn, mua bán hợp đồng lao động cũng khác nhau, các thoả thuận về tiền lương cũng khác nhau.
    Mặt khác tiền lương phải là trả cho sức lao động tức là giá cả hàng hoá sức lao động mà người lao động và người thuê lao động thoả thuận với nhau theo quy luật cung cầu, giá cả trên thị trường. Tiền lương là bộ phận cơ bản và giờ đây là duy nhất trong thu nhập của người lao động.
    Tiền lương là một yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và đối với chủ doanh nghiệp thì tiền lương là một phần cấu thành nên chi phí được tính toán quản lý chặt chẽ. Đối với người lao động thì tiền lương là quá trình thu nhập từ lao động của họ, là phần thu nhập chủ yếu với đại đa số người lao động. Do vậy phấn đấu nâng cao tiền lương là mục đích hết thảy của người lao động và chính mục đích này tạo động lực để người lao động phát triển và khả năng lao động của mình.
    Cùng với tiền lương, các khoản bảo hiểm và kinh phí nói trên hợp thành khoản chi phí về lao động sống trong tổng chi phí doanh nghiệp . Việc tính toán chính xác chi phí về lao động sống dựa trên cơ sở quản lý và theo dõi quá trình huy động và sử dụng lao động hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp.
    I.2- Chức năng của tiền lương
    Trong các doanh nghiệp thương mại cũng như các doanh nghiệp khác của nền kinh tế quốc dân, tiền lương thực hiện 2 chức năng :
    + Về phương diện XH : Tiền lương là phương tiện để tái sản xuất sức lao động cho XH. Để tái sản xuất sức lao động thì tiền lương phải đảm bảo đúng tiêu dùng cá nhân của người lao động và gia đình họ.
    + Về phương diện kinh tế: Tiền lương là đòn bẩy kinh tế có tác dụng kích thích lợi ích vật chất đối với người lao động, làm cho họ vì lợi ích vật chất của bản thân và gia đình mình mà lao động một cách tích cực với chất lượng và kết quả ngày càng cao.Trong hệ thống quản lý doanh nghiệp thì tiền lương được tư duy như là đòn bẩy kinh tế trong quản lý sản xuất. Việc trả lương phải gắn với kết quả lao động : Làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, có sức lao động không làm không hưởng. Bội số của tiền lương phải phản ánh đúng sự khác biệt trong tiền lương lao động có trình độ thấp nhất và cao nhất đã đưọc hình thành trong quá trình lao động.
    I.3 - Vai trò và ý nghĩa của tiền lương
    1. Vai trò của tiền lương
    Tiền lương là khoản thu nhập chủ yếu của người lao động. Vì vậy nó phải đóng vai trò đảm bảo cơ bản cho cuộc sống của người lao động. Để đảm bảo được vai trò này trước hết phải đảm bảo được mức sống tối thiểu cho người lao động. Mức sống tối thiểu là mức độ thoả mãn nhu cầu về điều kiện sinh hoạt để tồn tại và phát triển.
    Mức sống tối thiểu được thể hiện qua 2 mặt :
    + Về mặt hiện vật: Thể hiện qua cơ cấu, chủng loại các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần thiết để tái sản sản xuất giản đơn sức lao động.
    + Về mặt giá trị: Thể hiện qua các giá trị của các tư liệu sinh hoạt và các dịch vụ cần thiết.
    Mức sống tối thiểu phải được đảm bảo bằng tiền lương tối thiểu. Tiền lương tối thiểu là số tiền nhất định trả cho người lao động làm công việc đơn giản nhất, ở mức độ nhẹ nhàng và diễn ra trong môi trường lao động bình thường. Số tiền đó có thể đảm bảo cho người lao động mua được những tư liệu lao động thiết yếu để tái sản xuất sức lao động cho bản thân và có dành một phần phụ giúp gia đình, đảm bảo lúc hết tuổi lao động. Như vậy xét cơ cấu thì trong tiền lương tối thiểu bao gồm một hệ thống các chỉ tiêu hợp lý đảm bảo cho nhu cầu chi tiêu về ăn, mặc và sinh hoạt.
    Mức lương tối thiểu là do Nhà nước đề ra, nó áp dụng cho mọi ngành, mọi lĩnh vực trong nền kinh tế quốc dân. Nó đòi hỏi cho mọi doanh nghiệp khi trả lương cho người lao động thì không được trả thấp hơn so với mức lương tối thiểu.
    Ngoài ra, tiền lương còn đóng vai trò điều hoà lao động, là một công cụ đòn bẩy điều phối lao động có hiệu quả cao.
    2. ý nghĩa của tiền lương
    Tiền lương luôn xem xét từ 2 góc độ. Trước hết đối với chủ doanh nghiệp, tiền lương là yếu tố chi phí sản xuất. Còn đối với người cung ứng lao động thì tiền lương là nguồn thu nhập. Mục đích của chủ doanh nghiệp là lợi nhuận, mục đích của người lao động là tiền lương.
    Với ý nghĩa tiền lương không chỉ mang tính chất là chi phí mà nó trở thành phương tiện tạo ra giá trị mới hay nói đúng hơn là nguồn cung ứng sự sáng tạo ra giá trị gia tăng. Đứng về phía người lao động thì nhờ vào tiền lương mà họ có thể nâng cao mức sống, giúp họ hoà đồng với nền văn minh của XH. Trên một góc độ nào đó thì tiền lương là bằng chứng rõ ràng thể hiện giá trị, địa vị, uy tín của người lao động với gia đình, doanh nghiệp và XH. Nó thể hiện sự đánh giá đúng mức năng lực và công lao của họ đối với sự phát triển của doanh nghiệp. Nói chung mọi nhân viên đều tự hào với mức tiền lương của mình và đó là niềm tự hào cần được khuyến khích.
    Lương là động lực chính giúp người lao động tăng hiệu quả lao động, tuy nhiên mặt trái của nó cũng là nguyên nhân gây bất mãn, trì trệ bỏ doanh nghiệp - " Nếu doanh nghiệp cắt xén lương của người lao động thì người lao động sẽ làm cho sản phẩm kém chất lượng".
    3. Các nhân tố ảnh hưởng đến tiền lương
    Tiền lương không chỉ thuần tuý là vấn đề kinh tế, vấn đề lợi ích mà nó còn là vấn đề XH liên quan trực tiếp đến các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Do vậy tiền lương bị ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố:
    + Nhóm yếu tố thuộc về doanh nghiệp: Chính sách của doanh nghiệp, khả năng tài chính, cơ cấu tổ chức
    + Nhóm yếu tố thuộc về thị trường lao động: Quan hệ cung- cầu trên thị trường, mặt bằng chi phí tiền lương, chi phí hoạt động, thu nhập quốc dân, tình hình kinh tế- pháp luật
    + Nhóm yếu tố thuộc về thị trường lao động: Số lượng- chất lượng lao động, thâm niên công tác, kinh nghiệm làm việc và các mối quan hệ khác
    + Nhóm yếu tố thuộc về công việc: Lượng hao phí lao động trong quá trình làm việc, cường độ lao động, năng suất lao động
    II. CÁC HÌNH THỨC TRẢ LƯƠNG VÀ TRÍCH THEO LƯƠNG CỦA DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
    II.1- Các hình thức trả lương
    Tiền lương là biểu hiện rõ nhất về lợi ích kinh tế của người lao động và trở thành đòn bẩy mạnh mẽ nhất kích thích người lao động. Để phát huy tối đa chức năng của tiền lương thì việc trả lương cho lao động cần phải dựa vào những nguyên tắc cơ bản sau :
    + Phải đảm bảo tái sản xuất mở rộng sức lao động.
    + Dựa trên sự thoả thuận sức giữa người mua, người bán sức lao động. + Tiền lương phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh .
    Việc kết hợp đúng các nguyên tắc trên với mỗi hình thức trả lương cụ thể thích hợp với mỗi loại hình doanh nghiệp. Về cơ bản dù kinh doanh ở lĩnh vực nào sản xuất hay dịch vụ thì các doanh nghiệp cũng chỉ có hai hình thức trả lương cơ bản :
    + Trả lương theo thời gian .
    + Trả lương theo sản phẩm .
    1- Trả lương theo thời gian
    Khái niệm : Trả lương theo thời gian là việc trả lương dựa vào thời gian lao động ( Ngày công ) thực tế của người lao động. Việc trả lương này được xác định căn cứ thời gian công tác và trình độ kỹ thuật của người lao động .
    Hình thức trả lương này được áp dụng chủ yếu đối với những người làm công tác quản lý ( Nhân viên văn phòng, nhân viên hành chính sự nghiệp .) đối với công nhân sản xuất thì chỉ áp dụng ở những bộ phận bằng máy móc là chủ yếu hoặc những công việc không thể tiến hành định mức một cách chặt chẽ và chính xác hoặc vì tính chất của sản xuất đó mà nếu trả lương theo sản phẩm thì sẽ không đảm bảo được chất lượng sản phẩm , không đem lại hiệu quả thiết thực .
     
Đang tải...