Chuyên Đề Một số vấn đề về trách nhiệm dân sự trong pháp luật phong kiến việt nam

Thảo luận trong 'Luật Học' bắt đầu bởi Bống Hà, 29/4/13.

  1. Bống Hà

    Bống Hà New Member

    Bài viết:
    5,424
    Được thích:
    2
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Tóm tắt nội dung

    MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ TRONG PHÁP LUẬT PHONG KIẾN VIỆT NAM

    Trong thời gian dài gần 400 năm ( 1428-1802), các nhà nước phong kiến nước ta không ngừng xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Do tình hình chính trị xã hội ở từng triều đại và mỗi đời vua có những biến động, nên tình hình phát triển của pháp luật cũng có sự khác nhau. Hình thức pháp luật thế kỷ XV-XVIII rất đa dạng và phong phú. Nhưng pháp luật ở thời kỳ này hầu hết là của triều Lê hoặc phải mang danh nghĩa vua Lê, nhất là thời Hồng Đức đã góp phần quan trọng trong việc củng cố nhà nước và quốc gia Đại Việt.
    Bộ Quốc triều hình luật là sự kết tinh và đỉnh cao của những thành tựu lập pháp thế kỷ XV-XVIII, là bộ luật tiêu biểu nhất trong lịch sử pháp luật phong kiến Việt Nam.
    Thành tựu pháp luật điển hình của triều Nguyễn là bộ Hoàng Việt Luật lệ và các tập Hội điển. Hoàng Việt Luật lệ là một trong 2 bộ luật điển hình được soạn thảo theo một quy trình chặt chẽ dươí sự kiểm soát của Hoàng Đế.
    Bộ Hoàng Việt Luật lệ gồm 398 điều, chia thành 22 quyển. Cách thức phân chia các quyển, mục căn cứ vào thẩm quyền chức năng của Lục bộ. Cấu trúc này gần giống bộ Đại Thanh Luật lệ
    So với Quốc triều hình luật triều Lê, Hoàng Việt Luật lệ mang tính khái quát cao hơn, Việc chia quyển đã bước đầu có sự phân ngành, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình áp dụng pháp luật. Các chế định về trách nhiệm dân sự pháp luật thời Lê (Quốc triều Hình luật) và pháp luật thời nhà Nguyễn (Hoàng Việt luật lệ)được quy định sơ sài và tản mạn. Các quy định này không phân biệt rõ trách nhiệm dân sự và trách nhiệm hình sự. Chế tài hình sự được quy định trước hết nhằm trừng phạt kẻ nào đã xâm phạm vào tài sản hoặc nhân thân của người khác, ngoài hình phạt kẻ phạm tội còn phải bồi thường cho nạn nhân về thiệt hại xảy ra.
    Trong chế độ phong kiến ruộng đất là tư liệu sản xuất cơ bản là tài sản chính trong gia đình. Bởi vậy, ở Bộ luật Hồng Đức ruộng đất cũng là đối tượng điều chỉnh của pháp luật trong lĩnh vực dân sự. Nó được thể hiện qua hình thức sở hữu và hợp đồng. Quốc Triều hình luật đã phản ánh hai chế độ sở hữu ruộng đất trong chế độ phong kiến. Ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước trong Bộ luật gọi là ruộng công, ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân (ruộng tư).
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...