Tài liệu Một số vấn đề về tôn giáo

Thảo luận trong 'Tâm Lý Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    ĐỀ TÀI: Một số vấn đề về tôn giáo

    08/03/2005 - Nhân quyền

    02/08/2005 -- 14:06(GMT+7)

    Hà Nội (TTXVN) - Tôn giáo là hình thái ý thức xã hội, ra đời và phát triển từ hàng ngàn năm nay. Quá trình tồn tại và phát triển của tôn giáo ảnh hưởng khá sâu sắc đến đời sống chính trị, văn hoá, xã hội, đến tâm lý, đạo đức, lối sống, phong tục, tập quán của nhiều dân tộc, quốc gia.
    Việt Nam là quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng, tôn giáo. Với vị trí địa lý nằm ở khu vực Đông Nam Á có ba mặt giáp biển, Việt Nam rất thuận lợi trong mối giao lưu với các nước trên thế giới và cũng là nơi rất dễ cho việc thâm nhập các luồng văn hoá, các tôn giáo trên thế giới.
    Về mặt dân cư, Việt Nam là quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em. Mỗi dân tộc, kể cả người Kinh (Việt) đều lưu giữ những hình thức tín ngưỡng, tôn giáo riêng của mình. Người Việt có các hình thức tín ngưỡng dân gian như thờ cũng ông bà tổ tiên, thờ Thành hoàng, thờ những người có công với cộng đồng, dân tộc, thờ thần, thờ thánh, nhất là tục thờ Mẫu của cư dân nông nghiệp lúa nước. Đồng bào các dân tộc thiểu số với hình thức tín ngưỡng nguyên thuỷ (còn gọi là tín ngưỡng sơ khai) như Tô tem giáo, Bái vật giáo, Sa man giáo.
    Ở Việt Nam, do đặc điểm lịch sử liên tục bị xâm lược từ bên ngoài nên việc Lão giáo, Nho giáo - những tôn giáo có nguồn gốc ở phía Bắc thâm nhập; Công giáo - một tôn giáo gắn với văn minh Châu Âu vào truyền đạo và sau này đạo Tin lành đã khai thác điều kiện chiến tranh ở miền Nam để truyền giáo thu hút người theo đạo là điều dễ hiểu.
    Ở Việt Nam có những tôn giáo có nguồn gốc từ phương Đông như Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo; có tôn giáo có nguồn gốc từ phương Tây như Thiên chúa giáo, Tin lành; có tôn giáo được sinh ra tại Việt Nam như Cao Đài, Phật giáo Hoà Hảo; có tôn giáo hoàn chỉnh (có hệ thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức giáo hội), có những hình thức tôn giáo sơ khai. Có những tôn giáo đã phát triển và hoạt động ổn định; có những tôn giáo chưa ổn định, đang trong quá trình tìm kiếm đường hướng mới cho phù hợp.
    Ước tính, hiện nay ở Việt Nam có khoảng 80% dân số có đời sống tín ngưỡng, tôn giáo, trong đó có khoảng gần 20 triệu tín đồ của 6 tôn giáo đang hoạt động bình thường, ổn định, chiếm 25% dân số. Cụ thể:
    - Phật giáo: Gần 10 triệu tín đồ (những người quy y Tam Bảo), có mặt hầu hết ở các tỉnh, thành phố trong cả nước, trong đó tập trung đông nhất ở Hà Nội, Bắc Ninh, Nam Định, Hải Phòng, Hải Dương, Thừa Thiên-Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hoà, TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Lâm Đồng, Sóc Trăng, Trà Vinh, thành phố Cần Thơ .
    - Thiên chúa giáo: Hơn 5,5 triệu tín đồ, có mặt ở 50 tỉnh, thành phố, trong đó có một số tỉnh tập trung đông như Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình, Hải Phòng, Nghệ An, Hà Tĩnh, Đà Nẵng, Kon Tum, Đắk Lắk, Khánh Hoà, Bình Thuận, Đồng Nai, TP Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Vĩnh Long, An Giang, thành phố Cần Thơ .
    - Đạo Cao Đài: Hơn 2,4 triệu tín đồ có mặt chủ yếu ở các tỉnh Nam Bộ như Tây Ninh, Long An, Bến Tre, TP Hồ Chí Minh, Đồng Tháp, Tiền Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long, Kiên Giang, Cà Mau, An Giang .
    - Phật giáo Hoà Hảo: Gần 1,3 triệu tín đồ, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ như: An Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long.
    - Đạo Tin lành: khoảng 1 triệu tín đồ, tập trung ở các tỉnh: Đà Nẵng, Quảng Nam, TP Hồ Chí Minh, Bến Tre, Long An, Lâm Đồng, Đắk Lắk, Gia Lai, Đắk Nông, Bình Phước . và một số tỉnh phía Bắc.
    - Hồi Giáo: Hơn 60 nghìn tín đồ, tập trung ở các tỉnh: An Giang, TP Hồ Chí Minh, Bình Thuận, Ninh Thuận .
    Ngoài 6 tôn giáo chính thức đang hoạt động bình thường, còn có một số nhóm tôn giáo địa phương, hoặc mới được thành lập có liên quan đến Phật giáo, hoặc mới du nhập ở bên ngoài vào như: Tịnh độ cư sỹ, Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Tổ Tiên Chính giáo, Bàlamôn, Bahai và các hệ phái tin lành.
    Với sự đa dạng các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo nói trên, người ta thường ví Việt Nam như bảo tàng tôn giáo của thế giới. Về khía cạnh văn hoá, sự đa dạng các loại hình tín ngưỡng tôn giáo đã góp phần làm cho nền văn hoá Việt Nam phong phú và đặc sắc. Tuy nhiên đó là những khó khăn đặt ra trong việc thực hiện chủ trương, chính sách đối với tôn giáo nói chung và đối với từng tôn giáo giáo cụ thể.
    Ở Việt Nam có một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số theo các tôn giáo. Theo thống kê năm 1999, Việt Nam có 53 dân tộc thiểu số với khoảng trên dưới 10 triệu người, sống tập trung ở ba khu vực chính là Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ: Khu vực Tây Bắc có hơn 30 dân tộc thiểu số sinh sống với khoảng gần 6 triệu người; Khu vực Tây Nguyên có 21 dân tộc thiểu số cư trú với hơn 1,5 triệu người. Sau này có thêm các dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc vào Tây Nguyên sinh sống làm cho thành phần các dân tộc ở đây càng thêm đa dạng; Khu vực Nam Bộ nhất là các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long với ba dân tộc: Khơme, Hoa và Chăm với số dân khoảng 1 triệu.
    Về mặt văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo, đồng bào các dân tộc thiểu số ở ba khu vực nói trên có những nét riêng, độc đáo tạo nên nền văn hóa Việt Nam đa dạng. Hầu hết các dân tộc thiểu số vẫn giữ tín ngưỡng nguyên thủy thờ đa thần với quan niệm vạn vật hữu linh và thờ cúng theo phong tục tập quán truyền thống. Sau này, theo thời gian các tôn giáo dần dần thâm nhập vào những vùng đồng bào các dân tộc thiểu số hình thành các cộng đồng tôn giáo, cụ thể:
    - Cộng đồng dân tộc Khơme theo Phật giáo Nam tông. Hiện nay có 1.043.678 người Khơme, 8.112 nhà sư và 433 ngôi chùa trong đồng bào Khơme.
    - Cộng đồng người Chăm theo Hồi giáo. Có khoảng gần 100 nghìn người Chăm, trong đó số người theo Hồi giáo chính thống (gọi là Chăm Ixlam) là 25.703 tín đồ, Hồi giáo không chính thống (Chăm Bàni) là 39.228 tín đồ. Ngoài ra còn có hơn 30 nghìn người theo đạo Bàlamôn (Bà Chăm). Hồi giáo chính thức truyền vào dân tộc Chăm từ thế kỷ XVI. Cùng với thời gian, Hồi giáo đã góp phần quan trọng trong việc hình thành tâm lý, đạo đức, lối sống, phong tục tập quán, văn hóa của người Chăm.
    - Cộng đồng dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên theo Công giáo, Tin lành. Hiện nay ở khu vực Tây Nguyên có gần 300 nghìn người dân tộc thiểu số theo Công giáo và gần 400 nghìn người theo đạo Tin lành.
    - Cộng đồng dân tộc thiểu số ở Tây Bắc một số theo Công giáo, Tin lành. Hiện nay ở Tây Bắc có 38 nghìn người dân tộc thiểu số theo Công giáo; đặc biệt, khoảng 20 năm trở lại đây có đến trên 100 nghìn người Mông theo đạo Tin lành dưới tên gọi Vàng Chứ và hơn 10 nghìn Dao theo đạo Tin lành dưới tên gọi Thìn Hùng.
    Đa số tín đồ các tôn giáo là người lao động, trong đó chủ yếu là nông dân. Ước tính, số tín đồ là nông dân của Phật giáo, Thiên chúa giáo chiếm đến 80-85%, của Cao Đài, Phật giáo, Hòa Hảo: 95% và của đạo Tin lành là 65%. Là người lao động, người nông dân, tín đồ các tôn giáo ở Việt Nam rất cần cù trong lao động sản xuất và có tinh thần yêu nước. Trong các giai đoạn lịch sử, tín đồ các tôn giáo cùng với các tầng lớp nhân dân làm nên những chiến thắng to lớn của dân tộc.
    Tín đồ các tôn giáo ở Việt Nam có nhu cầu cao trong sinh họat tôn giáo, nhất là những sinh họat tôn giáo cộng đồng mang tính chất lễ hội. Một bộ phận tín đồ của một số tôn giáo vẫn còn mê tín dị đoan, thậm chí cuồng tín dễ bị các phần tử thù địch lôi kéo, lợi dụng.
    Thông qua việc trình bày một số đặc điểm tình hình tôn giáo Việt Nam có thể thấy phần nào bức tranh toàn cảnh về tôn giáo ở Việt Nam. Đó cũng chính là cơ sở thực tiễn để Đảng và Nhà nước họach định chủ trương, chính sách đối với tôn giáo ở tầm vĩ mô.
    Chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam được xây dựng trên quan điểm cơ bản của học thuyết Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo và căn cứ vào đặc điểm tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.
    Tư tưởng nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước Việt Nam là tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; đoàn kết tôn giáo, hòa hợp dân tộc. Tinh thần đó được Đảng và Nhà nước Việt Nam thể hiện bằng hệ thống chính sách phù hợp với từng giai đoạn cách mạng và đã có từ khi mới thành lập Đảng.
    Trong Chỉ thị của Thường vụ Trung ương về vấn đề thành lập Hội phản đế Đồng Minh ngày 18-11-1930, Đảng đã có tuyên bố đầu tiên về chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng của quần chúng: . phải lãnh đạo từng tập thể sinh họat hay tập đoàn của nhân dân gia nhập một tổ chức cách mạng, để dần dần cách mạng hóa quần chúng và lại đảm bảo tự do tín ngưỡng của quần chúng Chính sách này cũng được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra ngay trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ngày 3-9-1945 Tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết, coi đó là một trong sáu nhiệm của Nhà nước non trẻ. Hay trong lời kết thúc buổi ra mắt vào ngày 3-3-1951, Đảng Lao động Việt Nam đã tuyên bố: . vấn đề tôn giáo, thì Đảng Lao động Việt Nam hoàn toàn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của mọi người. Ngày 14-6-1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 234-SL ban hành chính sách tôn giáo của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong đó ghi rõ: Việc tự do tín ngưỡng, thờ cúng là một quyền lợi của nhân dân. Chính quyền Dân chủ Cộng hoà luôn luôn tôn trọng quyền lợi ấy và giúp đỡ nhân dân thực hiện.
    Ngay trong năm đầu của cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, mặc dù phải lo đối phó với cuộc chiến tranh ác liệt nhưng chính phủ vẫn quan tâm đến nhu cầu tâm linh của nhân dân. Ngày 11-6-1964, Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký Thông tư số 60-TTg yêu cầu thi hành chính sách tôn giáo theo Sắc lệnh 234.
    Sau ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, ngày 11-11-1977, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 297-CP về Một số chính sách đối với tôn giáo trong đó nêu lên 5 nguyên tắc về tự do tôn giáo. Để đáp ứng với yêu cầu của quá trình đổi mới, ngày 21-3-1991, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định 59-HĐBT Quy định về các hoạt động tôn giáo. Nghị định 59 là văn bản mang tính pháp quy, là sự kế thừa thực tiễn của quá trình thực hiện công cuộc đổi mới. Sự nghiệp cách mạng là của toàn dân, đổi mới về nhận thức và thực hiện tốt công tác quản lý Nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo là nhằm đảm bảo nhu cầu tín ngưỡng chính đáng của nhân dân. Qua đó đã phát huy được năng lực, sức sáng tạo của hàng chục triệu đồng bào theo tôn giáo, góp phần dân chủ hoá đời sống xã hội trên cơ sở ổn định chính trị.
    Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn có quan điểm, thái độ rõ ràng về tín ngưỡng, tôn giáo. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng năm 1991 đã khẳng định: Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đảng và Nhà nước ta tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân, thực hiện bình đẳng, đoàn kết lương giáo và giữa các tôn giáo. Khắc phục mọi thái độ hẹp hòi, thành kiến, phân biệt đối xử với đồng bào có đạo, chống những hành vi lợi dụng tôn giáo phá hoại độc lập dân tộc và đoàn kết dân tộc, chống phá chủ nghĩa xã hội, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng ghi rõ: Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, đồng thời chống việc lợi dụng tín ngưỡng để làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.
    Chủ trương, chính sách của Đảng đối với tín ngưỡng, tôn giáo từng bước được hoàn thiện. Đến đầu thập kỷ 90, trong những năm đầu thực hiện công cuộc đổi mới, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 24-NQ/TƯ về công tác tôn giáo trong tình hình mới, ghi dấu son về sự đổi mới đường lối, chính sách tín ngưỡng, tôn giáo. Sau gần 10 thực hiện Nghị quyết 24, Đảng ta đã tổng kết, đánh giá những thành tựu và nêu rõ những khuyết điểm, đồng thời Bộ Chính trị ra Chỉ thị 37-CT/TƯ ngày 02-7-1998 về công tác tôn giáo trong tình hình mới. Cho đến Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ bẩy, khoá IX về công tác tôn giaó (Nghị quyết 25-NQ/TƯ ngày 12-3-2003) quan điểm, chính sách của Đảng đối với tín ngưỡng, tôn giáo tiếp tục được khẳng định và phát triển thêm một bước mới phù hợp với sự nghiệp đổi mới của Đảng. Đó là Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật.
    Những quan điểm của Đảng ta từ ngày thành lập đến nay chứng minh rằng Đảng coi quyền tự do tín ngưỡng là một nhu cầu quan trọng của con người, là một trong những quyền công dân, quyền chính đáng của con người. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn tôn trọng đức tin của đồng bào theo tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau; tôn trọng quyền được theo bất cứ tôn giáo nào cũng như quyền không theo tôn giáo nào, mong muốn cho người dân theo tôn giáo được phần hồn thong dong, phần xác ấm no.
    Từ sau cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay, nước ta đã có 4 Hiến pháp (năm 1946, 1959, 1980 và năm 1992), trong đó Hiến pháp đầu tiên năm 1946 đã khẳng định quyền của người dân Việt Nam: Mọi công dân Việt có quyền tự do tín ngưỡng (Chương II, mục B). Từ những nguyên tắc cơ bản đó, Điều 80 Hiến pháp 1980 ghi rõ: Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước. Điều 70 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 được bổ sung rõ hơn: Công dân Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước.
    Tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một quyền nhân thân cơ bản của công dân cũng được đề cập trong Bộ luật Dân sự , được bảo vệ bằng pháp luật và được cụ thể hoá trong các văn bản quy phạm pháp luật ngày càng ở mức độ cao hơn, hoàn thiện hơn. Sau 5 năm thực hiện Nghị định số 26/1999/NĐ-CP, ngày 19-4-1999 về các hoạt động tôn giáo đã được thay thế bằng Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo do ủy ban Thường vụ Quốc hội khoá XI thông qua ngày 18-6-2004 và Chủ tịch nước ký Lệnh công bố ngày 29-6-2004.
    Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo ra đời là một minh chứng, một bước tiến và một lần nữa tiếp tục khẳng định nguyên tắc nhất quán trong chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam là tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
    Thực tế, những chủ trương, chính sách tín ngưỡng, tôn giáo không phải chỉ được khẳng định ở Hiến pháp, pháp luật hay trong các chỉ thị, nghị quyết của Đảng mà được thể hiện sống động trong cuộc sống hàng ngày.
    Cho đến nay, Nhà nước ta đã công nhận tư cách pháp nhân cho 15 tổ chức tôn giáo và tiếp tục xem xét theo tinh thần của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo. Có thể khẳng định, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo đã và đang diễn ra bình thường ở mọi nơi trên đất nước Việt Nam.
    Cả nước có 56.125 chức sắc, nhà tu hành, chưa kể hàng vạn người hoạt động bán chuyên nghiệp của các tổ chức tôn giáo, trong đó Phật giáo có 33.066 tăng ni; Thiên chúa giáo có 42 giám mục, 2.700 linh mục và 11.282 tu sĩ, Tin lành có 492 mục sư, giảng sư và truyền đạo; Cao Đài có 8.340 chức sắc, chức việc; Phật giáo Hoà hảo có 982 chức việc và Hồi giáo có 699 chức sắc; 3 học viện Phật giáo với trên 1.000 tăng ni sinh, 30 trường trung cấp Phật học, 4 trường cao đẳng phật học với 3.940 tăng ni sinh theo học. Giáo hội Thiên chúa giáo có 6 Đại chủng viện với 1.085 chủng sinh và 1.712 chủng sinh dự bị. Viện Thánh kinh thần học của Tổng liên hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) đã chiêu sinh hai khoá với 150 học sinh. Hiện có hàng trăm người của các tôn giáo đang theo học thạc sĩ, tiến sĩ ở các nước trên thế giới.
    Cả nước hiện có 22.000 cơ sở thờ tự, trong đó có nhiều cơ sở được xây dựng mới, xây dựng lại khang trang, đẹp đẽ. Đó là bằng chứng sinh động về đảm bảo tự do tín ngưỡng, tôn giaó là nguyên tắc hàng đầu và nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam vì cuộc sống tinh thần của hàng triệu tín đồ các tôn giáo và cũng là những công dân của Việt Nam.
    Năm 1955 trước yêu cầu mới về công tác tôn giáo nói chung, công tác quản lý Nhà nước về hoạt động tôn giáo nói riêng, Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà căn cứ vào ý kiến của Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 566-TTg ngày 2-8-1955 thành lập Ban Tôn giáo trực thuộc Phủ Thủ tướng (tiền thân của Ban Tôn giáo Chính phủ ngày nay) để nghiên cứu kế hoạch thi hành những chủ trương chính sách của Chính phủ về vấn đề tôn giáo, giúp Thủ tướng phối hợp với các ngành ở Trung ương và theo dõi hướng dẫn, đôn đốc các địa phương trong việc thực hiện những chính sách của Chính phủ về vấn đề tôn giáo và liên hệ với các tổ chức tôn giáo.
    Quá trình xây dựng và trưởng thành của Ban Tôn giáo Chính phủ có thể chia thành 3 thời kỳ:
    - Thời kỳ 1955-1975: Đây là thời kỳ Ban Tôn giáo thực hiện chức năng giúp Thủ tướng trong việc thực hiện các chủ trương chính sách về tôn giáo, nhất là sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 234-SL về tôn giáo. Thời kỳ này Ban Tôn giáo Chính phủ là đầu mối liên hệ với các tổ chức tôn giáo nhằm động viên tín đồ, chức sắc tôn giáo tham gia công cuộc xây dựng đất nước ở miền Bắc đấu tranh chống đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ, đấu tranh chống âm mưu cưỡng ép tín đồ Công giáo di cư vào Nam; động viên giới tôn giáo tham gia các phong trào cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
    - Thời kỳ 1975-1990: Đây là thời kỳ Ban Tôn giáo Chính phủ thực hiện chức năng giúp Chính phủ quản lý Nhà nước về tôn giáo trong điều kiện đất nước mới được thống nhất. Để đáp ứng yêu cầu quản lý hoạt động tôn giáo trong phạm vi cả nước, Ban Tôn giáo Chính phủ đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị quyết số 297-CP, ngày 11-11-1997 về hoạt động tôn giáo. Đồng thời làm đầu mối giúp đỡ, hướng dẫn các tôn giáo đi tới thống nhất về tổ chức và xây dựng Hiến chương đường hướng hành đạo theo phương châm tốt đời, đẹp đạo, gắn bó với dân tộc.
    - Thời kỳ 1990 đến nay: Thời kỳ này, Ban Tôn giáo Chính phủ phối hợp với các ngành thực hiện các mặt công tác đấu tranh chống các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam; đồng thời giúp Đảng và Nhà nước khẳng định quan điểm, chủ trương chính sách đối với tôn giáo.
    Đặc biệt trên cơ sở tổng kết thực tiễn nhìn lại và đổi mới, Ban Tôn giáo Chính phủ phối hợp với các ngành chức năng tham mưu cho Trung ương ban hành các chủ trương chính sách đổi mới trong công tác tôn giáo như Nghị quyết số 24-NQ/TƯ ngày 16-10-1990 về Đổi mới công tác tôn giáo trong tình hình đổi mới; Chỉ thị 37-CT/TW ngày 2-7-1998 về Tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới; Nghị định số 59-HĐBT ngày 21-3-1991 và sau này là Nghị định số 26/1999/NĐ-CP ngày 19-4-1999 về Hoạt động tôn giáo. Tham mưu cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TƯ ngày 12-3-2003 về Công tác tôn giáo. Để thể chế hoá tư tưởng đổi mới đối với công tác tôn giáo của Nghị quyết 25, Ban Tôn giáo Chính phủ phối hợp với các ngành chức năng xây dựng và trình ủy ban Thường vụ Quốc hội khoá XI, ban hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo.
    Đánh giá sự trưởng thành và những đóng góp của Ban Tôn giáo Chính phủ, năm 2002, Nhà nước trao tặng Huân chương Độc lập hạng Nhất và để khẳng định truyền thống của ngành quản lý Nhà nước về tôn giáo và xác lập cơ chế quản lý theo ngành - một ngành vốn có nhiều nét đặc thù, nhạy cảm, ngày 27-5-2005, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 445/QĐ-TTg lấy ngày 2-8 hằng năm là Ngày truyền thống của ngành quản lý Nhà nước về tôn giáo. Đây là phần thưởng cao quý của Đảng và Nhà nước dành cho các thế hệ làm công tác tôn giáo trong cả nước./.
    (Nguồn tư liệu: Ban Tôn giáo Chính phủ, TTXVN và Công báo)

    Từ ngày Đảng ta có chủ trương đổi mới, tư tưởng hòa hợp dân tộc lại được phục hưng và ứng nghiệm với nhiều kết quả khả quan. Quan điểm kinh tế nhiều thành phần, quan điểm kinh tế mở, tư tưởng VN làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, khép lại quá khứ, hướng về tương lai . đã giúp cho nước ta khai thác được cả nội lực và ngoại lực để vượt khỏi khủng hoảng, liên tiếp thu được những thành quả về mọi mặt.
    Ngày nay chúng ta đã có một nước VN độc lập, thống nhất và đang trên đường tiến tới thực hiện lý tưởng dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Chúng ta đã từng bước nâng cao uy tín quốc tế. Do đó, chúng ta càng có sức cảm hóa nhiều hơn. Những kinh nghiệm quốc tế vừa qua càng chỉ rõ thêm rằng nếu chỉ dùng đối đầu và bạo lực để giải quyết những thù hận thì chỉ đẻ ra thù hận. Nếu dùng cách cảm hóa để giải quyết thù hận thì có thể triệt tiêu được thù hận và tạo ra sức mạnh càng ngày càng dồi dào hơn.
    Nếu cứ còn chia rẽ do hận vì bại, kiêu vì thắng, thì có ích gì cho bản thân, cho đất nước, cho hình ảnh VN trên trường quốc tế?
    Nhìn ra thế giới, càng nghiệm thấy rằng tài nguyên lớn nhất cho mọi quốc gia chính là tài nguyên con người. Nếu qui tụ được sức người, thì nhiều nguồn lực khác cũng có thể được qui tụ. Con người mà không qui tụ thì mọi nguồn lực khác cũng rơi rụng.
    Trong thế giới ngày nay, nguồn lực hàng đầu là trí thức. Nói như thế không có nghĩa là đề cao những con người trí thức cụ thể, mà nói đến một điều kiện không thể thiếu cho sự phát triển: Trong cuộc đua tranh để phát triển, không thể chỉ dựa vào nhiệt tình và ý chí, mà phải dựa vào kiến thức, học vấn, sự nhận thức các qui luật của thiên nhiên và của xã hội. Theo kinh nghiệm lịch sử của thế giới và bản thân nước ta, nhất là qua những kinh nghiệm của Bác Hồ, thấy rằng trí thức tận tụy hay không là tùy thuộc vào chúng ta có tin dùng trí thức hay không, có giao cho họ đảm nhiệm những trọng trách mà họ xứng đáng được đảm nhiệm hay không. Điều đó không tùy thuộc vào bản thân trí thức, mà vào lãnh đạo: có đủ khả năng thu phục nhân tâm và nhân tài hay không. Thu hút được nhân tài cũng là một tài năng
    Nhân kỷ niệm 60 năm Cách mạng Tháng Tám, chúng ta hãy cùng nhau nhớ lại không khí hào hùng và sôi nổi của những ngày tháng đó. Ngọn lửa tạo nên không khí đó chính là tinh thần yêu nước và đại đoàn kết dân tộc, mà người thắp nên ngọn lửa đó chính là Bác Hồ. Khi đó, tất cả mọi người VN đều như một. Khi đó, yêu nước là cách tốt nhất để yêu mình.
    Để ngọn lửa đó còn sáng mãi, chúng ta hãy cùng ôn lại mấy bài học lớn của Bác:
    - Đất nước VN, giang sơn VN cùng mọi thành quả của nền văn hóa VN không phải là của riêng ai, của một giai cấp hay đảng phái nào, mà là tài sản chung của mọi người VN, của cả dân tộc VN.
    - Đã thế thì mọi người VN đều có trách nhiệm và có quyền được đóng góp vào việc tô điểm cho giang sơn đó, làm giàu thêm và đẹp thêm cho nền văn hóa đó.
    - Lại vì thế nên phải làm sao để cho mọi người VN đều được sống với giang sơn gấm vóc này, được hưởng mọi giá trị vật chất và tinh thần của nền văn hóa này.
    Nếu thực hiện tốt những tư tưởng đó, với kỷ niệm 60 năm quốc khánh, tôi hoàn toàn tin tưởng rằng dòng chữ “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, Thành công, thành công, đại thành công” trên quảng trường Ba Đình sẽ không chỉ là một khẩu hiệu bằng sắt, bằng gỗ, bằng vải màu ., mà sẽ là sức mạnh giúp chúng ta vượt qua bao thách thức trước mắt. Từ tinh thần của Ba Đình ngày ấy, nó sẽ trở lại với dân tộc, nó sẽ đem lại cả sức sống, niềm tin, niềm vui, nghĩa tình và hạnh phúc cho hàng triệu và hàng triệu người VN chúng ta.
    Phát triển nguồn nhân lực là công việc quan trọng nhất
    02/04/2007
    Trong bối cảnh Việt Nam đang chuyển mình, hối hả cho hội nhập kinh tế quốc tế thì nguồn nhân lực chất lượng cao, hơn bao giờ hết đang là mối quan tâm hàng đầu của nhà nước, xã hội mà sâu sát hơn là công việc của những hoạch định chính sách, chiến lược, những chuyên gia, nhà phân tích. Để hiểu rõ hơn về nguồn nhân lực hiện nay, khả năng đáp ứng nhu cầu đào tạo của học viên v.v. PV tạp chí VIB đã có cuộc phỏng vấn bà Đào Phương Thuý, Giám đốc cty tư vấn thương mại và tài chính PTI về vấn đề trên.
    Bà đánh giá như thế nào về nguồn nhân lực cấp cao của Việt Nam hiện nay và tầm quan trọng của việc cần thiết phải đào tạo đội ngũ nhân lực “có chất xám” để đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam?

    Việc thiếu nguồn nhân lực cấp cao là một vấn đề tất yếu của các nước đang phát triển như Việt Nam. Thị trường lao động hiện nay đang khan hiếm tất cả các loại Giám đốc, chuyên gia trên mọi lĩnh vực từ Tài chính, Ngân hàng, Kỹ thuật, IT, Nhân sự đến Bán hàng và Tiếp thị v.v. Rất nhiều doanh nghiệp sẵn sàng trả mức lương USD 5.000 – USD 10.000/ tháng kèm theo là nhiều khoản ưu đãi, phúc lợi khác để chiêu dụ nhân tài nhưng vẫn chưa hẳn tìm được nhân sự phù hợp. Từ thực tế hiện nay tại nhiều “tập đòan tư nhân” của Việt Nam cho thấy, do thiếu nguồn nhân lực cấp cao “một cách trầm trọng”, ông chủ đang phải đảm nhiệm vị trí Tổng Giám Đốc cho hàng chục công ty con của mình. “Nhân sự giỏi” luôn luôn là yếu tố quyết định thành công của tất cả các doanh nghiệp. Tuy nhiên, phần lớn các công ty Việt Nam lại chưa thật sự ý thức được tầm quan trọng của công tác quản lý và phát triển nguồn nhân lực, cũng như thiếu hẳn cơ chế tài chính rõ ràng để thu hút và giữ được nhân tài. Theo khảo sát của PTI, tại nhiều công ty Việt Nam “tầm cỡ”, do dành quá nhiều thời gian cho các vấn đề sự vụ, Ban lãnh đạo nhiều khi đã quên đi vai trò quan trọng của mình là “ chỉ dẫn, kèm cặp nhân viên” và “đào tạo đội ngũ kế thừa”. Điều đó dẫn đến việc Ban Giám Đốc không có nhân sự giỏi để giao việc, và vì vậy ngày càng phải tham gia vào các vấn đề sự vụ của cấp dưới. Càng phải tham gia nhiều vào các vấn đề sự vụ lại càng không có thời gian đào tạo nhân viên, vì vậy lại càng không thể có được nhân sự giỏi. Do đó, hơn ai hết, cấp lãnh đạo cao nhất cần phải nhận thức đựoc việc phát triển nguồn nhân lực là một trong những công việc quan trọng nhất của mình, để có thể dành thời gian cho công việc này một cách đúng mức.

    Hiện nay các trung tâm đào tạo tại Việt Nam đang đưa ra rất nhiều chương trình đào tạo các nhà quản lý, chuyên gia trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, v.v . Bà đánh giá như thế nào về chất lượng đào tạo của những khoá học này cũng như ứng dụng thực tiễn của các chương trình đạo tào vào công tác quản trị doanh nghiệp?

    Bản thân tôi đã từng tham gia khoá học MBA của trường Henley – Anh Quốc và tôi đã nhận được rất nhiều kiến thức từ khoá học. Mức độ đòi hỏi cao của chương trình qua những đề tài mang tính ứng dụng cao và những bài thi phát triển chiến lược/ quản trị sự thay đổi cho các lọai hình công ty đa dạng đã giúp tôi rất nhiều trong việc quản lý PTI hiện nay cũng như tư vấn giải pháp quản trị và quản trị tài chính cho các khách hàng. Một số các giám đốc tài ba của các công ty thành công của Việt Nam cũng đã tham dự các khóa đào tạo Quản trị Doanh nghiệp của các trường Đại học Việt Nam và đã ứng dụng các kiến thức học được ở trường để phát triển chính sách nhân sự tốt, xây dựng các chương trình marketing, xây dựng hệ thống thông tin, và phát triển kế họach kinh doanh ngắn, trung và dài hạn cho doanh nghiệp mình cũng như tổ chức quản lý việc thực hiện các kế họach này. Theo tôi, các chương trình đào tạo đều mang lại những kiến thức cần thiết cho các học viên nhưng sự thành công của khóa học lại phụ thuộc nhiều vào “tinh thần học tập’ của học viên. Thước đo thành công của các chương trình đào tạo chính là kết quả công việc của các học viên. Tuy nhiên, một thực tế tại rất nhiều các tổ chức đào tạo Việt Nam là “các thầy” nhiều khi lại chưa từng “một ngày” thực hiện các công việc mà học viên mình đang làm – vì vậy sẽ thật khó khăn để đánh giá chất lượng thực sự của các khóa học này.


    Được biết, PTI và Indochina Pro đang triển khai một số chương trình đào tạo “Giám đốc Tài chính” để nâng cao hiệu quả quản lý tài chính của doanh nghiệp. Bà có thể cho biết tính ưu việt của chương trình là gì? Khả năng ứng dụng các kiến thức và giải pháp từ chương trình đào tạo vào điều hành doanh nghiệp sẽ được thể hiện như thế nào?

    Chương trình “Giám Đốc Tài Chính” thực hành mà chúng tôi kết hợp cùng Indochina Pro tổ chức tại cả Hà Nội và T.P. Hồ Chí Minh là chương trình để chúng tôi thực hiện tâm huyết chia sẻ các kinh nghiệm thành công của những người làm nghề “Giám Đốc Tài Chính’ để các doanh nghiệp Việt Nam phần nào khắc phục được điểm yếu về “quản trị tài chính” của mình. Chúng tôi xây dựng chương trình dựa trên những kinh nghiệm thành công thực tế của rất nhiều các GĐTC trong các lĩnh vực khác nhau với các nguyên tắc:

    - Giúp doanh nghiệp đào tạo các GĐTC tương lai theo những kỹ năng chuẩn – được đúc kết từ các kỹ năng của các GĐTC của các tập đoàn lớn tại Việt Nam và Quốc tế (như quản lý kế toán tài chính và cơ cấu thuế, kiểm soát nội bộ, hoạch định chiến lược tài chính, quản lý rủi ro, cơ cấu tài sản và nợ, thu xếp vốn.). GĐTC tương lai của doanh nghiệp có thể nhanh chóng áp dụng những kỹ năng này cho doanh nghiệp sau khi hòan tất chương trình.

    - Xây dựng tính thực hành cao của chương trình: toàn bộ phần lý thuyết sẽ được truyền đạt qua các tình huống thực tế. Kết thúc phần lý thuyết, các nhóm sẽ sử dụng kiến thức đã học để thực hành trên tình huống lớn có thật - học viên sẽ làm việc với tình huống này cho tất cả 6 môn học. Kết thúc mỗi môn học, học viên phải hoàn thành chuyên đề cá nhân cho từng môn học để ứng dụng các kiến thức đã học trong việc giải quyết các vấn đề của chính doanh nghiệp mình. Học viên sẽ phải thuyết trình trước hội đồng chấm thi và ban lãnh đạo về giải pháp và chương trình hành động thực hiện giải pháp. Đến môn cuối cùng “Lập Chiến lược Tài chính và Thu xếp Vốn”, học viên sẽ thuyết trình trước cả ngân hàng và nhà đầu tư để thuyết phục ngân hàng/ nhà đầu tư đầu tư vốn cho doanh nghiệp mình.

    - Nâng cao tính ứng dụng và mang lại giá trị gia tăng cho doanh nghiệp: với các doanh nghiệp tham gia chương trình, tùy theo nhu cầu và tình hình thực tế của từng doanh nghiệp, PTI sẽ cung cấp giải pháp đầu tư và cơ cấu tài trợ thương mại giúp doanh nghiệp huy động vốn chủ sở hữu và vốn vay từ nhà đầu tư và ngân hàng với các điều kiện ưu đãi nhất (như vay tín chấp) và cắt giảm chi phí tài chính. Các GĐTC tương lai tham dự chương trình sẽ là cầu nối giữa PTI, nhà đầu tư , ngân hàng và doanh nghiệp, gíup doanh nghiệp giải quyết các vấn đề liên quan đến quản lý tài chính của mình một cách hiệu quả nhất.
    Thực tế thực hiện các chương trình tập huấn nội bộ cho một số các khách hàng lớn trong ngành dầu khí theo phương pháp trên đã mang lại cho PTI những phản hồi rất tốt. Điểm chương trình và giảng dạy mà chúng tôi nhận được từ học viên luôn ở mức trên 4,5/5 (trên 90%). Với chương trình này, do tính chất thực hành rất cao nên chúng tôi cũng sẽ không mở nhiều lớp. Trong năm 2007, chúng tôi chỉ có chủ trương mở 1 khóa tại Hà Nội và 1 khóa tại T.P. Hồ Chí Minh.

    Để không ngừng cập nhật kiến thức và tạo ra một cộng đồng các GĐTC, chúng tôi sẽ thành lập câu lạc bộ các GĐTC sau khi kết thúc khoá đầu tiên. Các hội viên sẽ được truy cập vào website để cập nhật thông tin và kiến thức, được tham dự một số hội thảo miễn phí, được hưởng một số giờ tư vấn miễn phí và được kết nối với các nhà đầu tư, ngân hàng trong việc thu xếp vốn cho doanh nghiệp.

    Là người đã có gần 17 năm kinh nghiệm ở vị trí cấp cao tại các tập đoàn lớn của nước ngoài, Bà nghĩ thế nào về nghề giám đốc tài chính cũng như nỗ lực của PTI nhằm cung ứng đội ngũ giám đốc tài chính cho Việt Nam trong tương lai?

    Nghề “GĐTC” đòi hỏi bạn phải có nhiều khả năng và kinh nghiệm đa dạng : giỏi về kế tóan, hiểu biết về hệ thống thông tin và IS, có khả năng họach định chiến lược, xây dựng kế họach tài chính, nắm vững về các nguyên tắc kiểm sóat nội bộ, am hiểu về các sản phẩm tài chính, ngân hàng để có thể đưa ra các giải pháp giảm chi phí tài chính và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp, có khả năng cơ cấu tài sản-nợ-vốn tối ưu để đáp úng mong đợi của nhà đầu tư, gia tăng giá trị doanh nghiệp, có khả năng marketing để “bán cổ phần của doanh nghiệp cho nhà đầu tư với giá trị cao nhất”, có khả năng lãnh đạo. Những yêu cầu này đủ để bạn hình dung để trở thành một “GĐTC” thực sự sẽ cần phải “khổ luyện như thế nào”. Tuy nhiên, nếu bạn biết “đứng trên vai những người khổng lồ”, bạn có thể rút ngắn chặng đường đó hơn rất nhiều. PTI chúng tôi với các chuyên gia đã và đang là các GĐTC giàu kinh nghiệm sẽ đóng góp cho các doanh nghiệp Việt Nam “kỹ nghệ GĐTC “ của “những người khổng lồ” đó. Với tâm huyết của những người làm nghề, chúng tôi hy vọng rằng chương trình “GĐTC thực hành này” cùng với các chương trình khác sẽ phần nào gia tăng nguồn lực “GĐTC” cho các doanh nghiệp Việt Nam.


    Nhận thức tầm quan trọng của việc đào tạo nguồn nhân lực cấp cao cho hội nhập kinh tế quốc tế, mà cụ thể là đội ngũ quản lý tài chính, lĩnh vực thuộc ưu thế chuyên môn của PTI, PTI đã phối hợp với Indochina Pro đã tổ chức khoá học Giám đốc tài chính thực hành tại TP Hồ Chí Minh và Hà Nội. Tại Hà Nội, khoá học sẽ được tổ chức tại Trung tâm Đào tạo Quản trị Kinh doanh (địa chỉ 18 Yết Kiêu), bắt đầu vào ngày 21/4 và kéo dài gần một năm, gồm 6 môn học chính là: Vai trò của giám đốc tài chính quản lý hệ thống thông tin tài chính, quản lý kế toán tài chính và lập kế hoạch thuế cho doanh nghiệp, kế toàn quản trị và ra quyết định, kiểm soát nội bộ, sử dụng các sản phẩm, dịch vụ ngân hang để nâng cao hiệu quả tài chính, lập chiến lược tài chính và thu xếp vốn.
    [HR][/HR]​
    Những vấn đề phát triển ở Việt Nam -
    Giải pháp



    PGS. TSKH Võ Đại Lược
    Tổng Giám đốc Trung tâm Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương Việt Nam
    Thành viên ban Nghiên cứu của Thủ tướng
    Hà Nội, Việt Nam


    Từ thập kỷ 90 đến nay, Việt Nam đã thực sự bước vào thời kỳ phát triển trên nhiều mặt với những thành tựu nổi bật về tăng trưởng cao, về xoá đói giảm nghèo, về phát triển con người, về hội nhập quốc tế Tuy nhiên Việt Nam cũng đang phải đối diện với không ít vấn đề bức xúc, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu khách quan khoa học, đề có thể có những giải pháp phù hợp. Những vấn đề đó có thể là tăng trưởng và công bằng xã hội, phát triển thị trường, hội nhập quốc tế, hoàn thiện hệ thống thể chế, cải cách chính phủ và hiện đại hoá cơ sở hạ tầng. Bài này sẽ không đi sâu phân tích cụ thể từng vấn đề trên, mà chỉ đi sâu vào những khía cạnh bức xúc của một số vấn đề, từ đó nêu ra một số giải pháp.
     
Đang tải...