Tài liệu Một số vấn đề về nâng cao công tác quản lý và sử dụng NSNN trên địa bàn tỉnh Hà Giang

Thảo luận trong 'Kinh Tế Chính Trị' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    ĐỀ TÀI: Một số vấn đề về nâng cao công tác quản lý và sử dụng NSNN trên địa bàn tỉnh Hà Giang

    MỤC LỤC

    [TABLE]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [TD][/TD]
    [TD]Trang[/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [TD]ĐẶT VẤN ĐỀ[/TD]
    [TD][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [TD]NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ
    [/TD]
    [TD][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [TD]Phần thứ nhất
    MỘT SỐ VẤN ĐỀ LƯ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC[/TD]
    [TD][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]I.[/TD]
    [TD]Khái niệm về NSNN và chính sách tài khoá.[/TD]
    [TD][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]II.[/TD]
    [TD]Bản chất, chức năng và vai tṛ của NSNN nói chung, của Hà Giang nói riêng trong sự nghiệp phát triển kinh tế -xă hội .[/TD]
    [TD][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]III.[/TD]
    [TD]Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính sách động viên tài chính nói chung và thuế nói riêng cho ngân sách Nhà nước.[/TD]
    [TD][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [TD]Phần thứ hai
    T̀NH H̀NH VỀ TỰ NHIÊN- KINH TẾ-XĂ HỘI VÀ THƯC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LƯ SỬ DỤNG NSNN TỈNH HÀ GIANG[/TD]
    [TD][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]I.[/TD]
    [TD]Điệu kiện tự nhiên- kinh tế-xă hội của tỉnh Hà Giang.[/TD]
    [TD][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]II.[/TD]
    [TD]Thực trạng công tác quản lư và sử dụng NSNN tỉnh Hà Giang 1997- 1999.[/TD]
    [TD][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]III.[/TD]
    [TD]Đánh giá t́nh h́nh công tác quản lư thu thuế trong mấy năm qua.[/TD]
    [TD][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [TD]Phần thứ ba
    PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ NÂNG CAO CÔNG TÁC QUẢN LƯ VÀ SỬ DỤNG NSNN CỦA TỈNH HÀ GIANG[/TD]
    [TD][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]I.[/TD]
    [TD]Phương hướng, mục tiêu chung.[/TD]
    [TD][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]II.[/TD]
    [TD]Những giải pháp chung chủ yếu để nâng cao công tác quản lư và sử dụng NSNN của tỉnh Hà Giang[/TD]
    [TD][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [TD]Kiến nghị và kết luận.[/TD]
    [TD][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]I.[/TD]
    [TD]Kiến nghị[/TD]
    [TD][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]II.[/TD]
    [TD]Kết luận.[/TD]
    [TD][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [TD]Danh mục tài liệu tham khảo[/TD]
    [TD][/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]



    ĐẶT VẤN ĐỀ

    1. Sự cần thiết của đề tài.
    Trong hệ thống tài chính của mỗi quốc gia th́ NSNN có vị trí quan trọng đặc biệt, nó giữ vai tṛ chủ đạo trong hệ thống tài chính và có ư nghĩa quyết định trong quá tŕnh phát triển của nền kinh tế quốc dân.
    Trong công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước, thực hiện CNH, HĐH đất nước, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lư của Nhà nước theo định hướng xă hội chủ nghĩa th́ đ̣i hỏi có khối lượng vốn vô cùng lớn và phát triển bền vững. Muốn vậy phải có chính sách tài chính quốc gia tiên tiến phù hợp, trong đó NSNN là một tong những công cụ quan trọng nhất. Thông qua công cụ NSNN thực hiện phân phối lần đầu và phân phối lại thu nhập quốc dân, nhờ đó tập trung một phần quan trọng thu nhập quốc dân vào NSNN, đảm bảo nguồn vốn cho tái sản xuất mở rộng của nền kinh tế.
    NSNN là công cụ để thực hiện tích luỹ và tập trung vốn, phân phối và sử dụng vốn cho quá tŕnh CNH, HĐH đất nước, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xă hội, từng bước làm thay đổi cơ cấu nền kinh tế theo hướng đi lên nền sản xuất lớn xă hội chủ nghĩa.
    NSNN giữ vai tṛ quyết định trong việc thực hiện các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xă hội, các kế hoạch phát triển kinh tế - xă hội, các cân đối lớn trong nền kinh tế quốc dân. NSNN c̣n cung cấp kinh phí cho hoạt động của các lĩnh vực không sản xuất vật chất, duy tŕ hoạt động của bộ máy Nhà nước, giữ ổn định t́nh h́nh kinh tế - xă hội, phấn đấu xây dựng một nền kinh tế phát triển theo hướng CNH, HĐH.
    V́ vậy cần phải nhận thức đầy đủ, đúng đắn vị trí, vai tṛ của NSNN, trên cơ sở đó tiến hành đổi mới các hoạt động của NSNN cho phù hợp với điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, nhằm đảm bảo nguồn vốn đáp ứng cho sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - xă hội của đất nước.
    Hà Giang là một tỉnh miền núi phía Bắc của Tổ quốc, có nhiều tiềm năng thế mạnh. Tuy nhiên cho đến nay vẫn là một tỉnh nghèo nhất của nước ta. Điều đó được thể hiện rơ nhất trên các mặt kinh tế, xă hội, về các cơ sở vật chất kỹ thuật, đặc biệt là kết cấu hạ tầng, về lực lượng sản xuất và NSLĐ . đang yếu kém và lạc hậu. Với t́nh trạng đó th́ chưa thể đáp ứng nhu cầu CNH, HĐH nền kinh tế của tỉnhvà đồng thời cũng gặp khó khăn trong việc cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân các dân tộc trong tỉnh. Một trong những nguyên nhân cơ bản của t́nh trạng đó là Hà Giang c̣n quá thiếu nguồn vốn vật chất. V́ vậy, để giải quyết mâu thuẫn trên đây cần phải tiến hành đồng bộ nhiều vấn đề. Một trong những vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt là giải quyết tốt vấn đề ngân sách. Chính v́ vậy tôi chọn đề tài Một số vấn đề về nâng cao công tác quản lư và sử dụng NSNN trên địa bàn tỉnh Hà Giang để viết luận văn tốt nghiệp cử nhân chính trị.
    2. Mục đích, nhiệm vụ, phương pháp và phạm vi của đề tài.
    - Mục đích của đề tài: Trên cơ sở làm rơ một số vấn đề về lư luận, quan điểm của Đảng, thực tiễn của địa phương để tŕnh bày bản luận văn tốt nghiệp cử nhân chính trị của ḿnh; đồng thời thông qua sự nghiên cứu này có thể có đóng góp nhỏ về suy nghĩ của bản thân tôi trong lĩnh vực quản lư NSNN ở tỉnh Hà Giang.
    - Nhiệm vụ của đề tài: Từ mục đích nói trên, đề tài luận văn có các nhiệm vụ sau:
    + Khái quát một vài nét chung nhÊt về lư luận của NSNN và vai tṛ của NSNN trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - xă hội của nước ta trong TKQĐ lên CNXH.
    + Phân tích, đánh giá những nét lớn về thực trạng kinh tế - xă hội cũng như thực trạng quản lư và sử dụng NSNN của tỉnh Hà Giang hiện nay.
    + Từ hai nhiệm vụ trên, đề tài có nhiệm vụ phải nêu lên được phương hướng và những giải pháp chủ yếu để quản lư và sử dụng NSNN của tỉnh Hà Giang tốt hơn trong thời gian tới.
    - Phương pháp của đề tài:
    Đề tài này thuộc thể loại nghị luận kinh tế - xă hội. Do đó, trong quá tŕnh nghiên cứu và thể hiện, luận văn coi trọng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời bám sát vào quan điểm đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước trong lĩnh vực của đề tài nêu ra.
    Để thể hiện đề tài, luận văn c̣n sử dụng tổng hợp phương pháp phân tích, thống kê, tổng hợp từ t́nh h́nh và các số liệu của thực tiễn, để từ đó rót ra những nhận xét có căn cứ. Luận văn c̣n coi trọng tính kế thừa có chọn lọc thành quả của những công tŕnh, những tác giả đă nghiên cứu vấn đề này.
    - Phạm vi của đề tài:
    Vấn đề quản lư và sử dụng NSNN là một vấn đề rộng lớn, khó khăn và phức tạp, đặc biệt là đối với những địa phương như Hà Giang nền kinh tế c̣n ở tŕnh độ thấp và phát triển chậm. Tuy nhiên, trong khuôn khổ có mức độ của luận văn cử nhân chính trị, đề tài chỉ giới hạn ở phạm vi nghiên cứu công tác quản lư và sử dụng NSNN ở một địa phương - đó là tỉnh Hà Giang. Trong đó tập trung làm rơ thực trạng của quản lư và sử dụng NSNN của tỉnh và qua đó nêu lên một số giải pháp để thực hiện quản lư tốt hơn NSNN của tỉnh. Đề tài không đủ điều kiện để nghiên cứu và thể hiện hết mọi khía cạnh của đề tài nói trên.
    3. Bố cục của luận văn.
    Ngoài phần đặt vấn đề, kiến nghị và kết luận, nội dung của luận văn gồm cả 3 phần chính sau đây:
    Phần thứ nhất: Một số vấn đề lư luận chung về ngân sách Nhà nước (NSNN).
    Phần thứ hai: T́nh h́nh cơ bản về tự nhiên - kinh tế - xă hội và thực trạng công tác quản lư và sử dụng NSNN của tỉnh Hà Giang.
    Phần thứ ba: Phương hướng và những giải pháp chủ yếu để nâng cao công tác quản lư và sử dụng NSNN của tỉnh Hà Giang.



    Nội Dung Luận Văn

    Phần thứ nhất

    Một số vấn đề lư luận chung về ngân sách Nhà nước (NSNN )

    I. KHÁI NIỆM VỀ NSNN VÀ CHÍNH SÁCH TÀI KHOÁ.
    1. Ngân sách Nhà nước .
    a. Khái niệm NSNN:
    Thuật ngữ NSNN có từ lâu và ngày nay được dùng phổ biến trong đời sống kinh tế - xă hội và được diễn đạt dưới nhiều góc độ khác nhau. Song quan niệm NSNN được bao quát nhất cả về lư luận và thực tiễn của nước ta hiện nay là:
    NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước trong dự toán đă được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng của Nhà nước.
    Trong thực tế nh́n bề ngoài, hoạt động NSNN là hoạt động thu chi tài chính của Nhà nước. Hoạt động đó đa dạng, phong phú, được tiến hành hầu hết trên các lĩnh vực, tác động đến mọi chủ thể kinh tế - xă hội. Tuy đa dạng, phong phú như vậy, nhưng chúng có những đặc điểm chung:
    Các hoạt động thu chi của NSNN luôn luôn gắn chặt với quyền lực kinh tế - chính trị của Nhà nước, được Nhà nước tiến hành trên cơ sở những luật lệ nhất định. Đằng sau những hoạt động thu chi tài chính đó chứa đựng nội dung kinh tế - xă hội nhất định và chứa đựng các quan hệ kinh tế, quan hệ lợi Ưch nhất định. Trong các quan hệ lợi Ưch đó, lợi Ưch quốc gia, lợi Ưch chung bao giờ cũng được đặt lên hàng đầu và chi phối các mặt lợi Ưch khác trong thu, chi ngân sách Nhà nước.
    Quá tŕnh thực hiện các chỉ tiêu thu, chi NSNN nhằm h́nh thành quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước và là quá tŕnh phân phối và phối lại giá trị tổng sản phẩm xă hội phục vụ cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trên các lĩnh vực, trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
    Như vậy, chúng ta thấy rằng thu, chi của NSNN hoàn toàn không giống bất kỳ một h́nh thức thu chi của một loại quỹ nào. Thu của NSNN phần lớn đều mang tính chất bắt buộc, c̣n các khoản chi của NSNN lại mang tính chất không hoàn lại. Đây là đặc trưng nổi bật của NSNN trong bất cứ một Nhà nước nào. Xuất phát từ quyền lực của Nhà nước và các nhu cầu về tài chính để thực hiện chức năng quản lư và điều hành của Nhà nước đối với nền kinh tế - xă hội. Do nhu cầu chi tiêu của ḿnh, Nhà nước đă sử dụng quyền lực thông qua hệ thống pháp luật tài chính buộc mọi pháp nhân và thể nhân phải đóng góp một phần thu nhập của ḿnh cho NSNN, tức là các chủ thể kinh tế thực hiện nghĩa vụ của ḿnh với Nhà nước. Sự bắt buộc đó là hoàn toàn khách quan, v́ lợi Ưch của toàn xă hội chứ không phải phục vụ cho lợi Ưch riêng của Nhà nước. Các đối tượng nộp thuế cũng hoàn toàn ư thức được nghĩa vụ của ḿnh trong việc đảm bảo sự tồn tại và phát triển của Nhà nước. Họ cũng hiểu được vai tṛ của Nhà nước trong việc sử dụng các nguồn lực tài chính nhằm thực hiện các chức năng kinh tế, xă hội, do nhân dân giao phó. Sự tồn tại và hoạt động của Nhà nước chính là yếu tố quyết định tính chất hoạt động của NSNN, nói lên bản chất của NSNN. Mọi hoạt động của NSNN đều nhằm vào việc tạo lập và sử dụng các nguồn lực tài chính, nó phản ánh hệ thống các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và các chủ thể trong xă hội, phát sinh do Nhà nước tạo lập thông qua NSNN. Đó là mối quan hệ kinh tế giữa phần nộp vào NSNN và phần để lại cho các chủ thể kinh tế trong xă hội. Phần nộp vào ngân sách sẽ tiƠp tục được phân phối lại nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước và phục vụ cho các nhu cầu phát triển kinh tế - xă hội.
    Với quyền lực tối cao của ḿnh, Nhà nước có thể sử dụng các công cụ sẵn có để bắt buộc mỗi thành viên trong xă hội cung cấp cho ḿnh các nguồn lực tài chính cần thiết. Song cơ sở tạo lập các nguồn lực tài chính xuất phát từ sản xuất, mà chủ thể của sản xuất chính là các thành viên trong xă hội. Mọi thành viên đều có lợi Ưch kinh tế và đấu tranh bảo vệ lợi Ưch kinh tế đó, nghĩa là thông qua quyền lực của ḿnh, Nhà nước sử dụng các công cụ, chính sách giải quyết hài hoà giữa lợi Ưch Nhà nước và lợi Ưch của các thành viên trong xă hội. Do vậy muốn có NSNN đúng đắn, lành mạnh th́ phải tôn trọng và vận dụng các quy luật kinh tế một cách khách quan, phải dựa trên cơ sở đảm bảo hài hoà lợi Ưch của Nhà nước và lợi Ưch cho các thành viên trong xă hội. Một NSNN lớn mạnh phải đảm bảo sự cân đối trên cơ sở khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh, bao quát hết toàn bộ các nguồn thu, nuôi dưỡng nguồn thu để đáp ứng nhu cầu chi ngày càng tăng.
    Như vậy bản chất của NSNN là hệ thống các mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và các thành viên trong xă hội, phát sinh trong quá tŕnh Nhà nước huy động và sử dụng các nguồn lực tài chính, nhằm đảm bảo thực hiện các chức năng quản lư và điều hành nền kinh tế, xă hội của Nhà nước.
    Chức năng đầu tiên của NSNN là chức năng phân phối. Bất kỳ một Nhà nước nào, muốn tồn tại và duy tŕ được các chức năng của ḿnh, trước hết phải có nguồn lực tài chính. Đó là các khoản chi cho bộ máy quản lư Nhà nước, cho lực lượng quân đội, cảnh sát, cho nhu cầu văn hoá, giáo dục, y tế, phúc lợi xă hội, chi cho đầu tư phát triển v.v . Nhưng muốn tạo lập được NSNN, trước hết phải tập hợp các khoản thu theo luật định, cân đối chi tiêu theo tiêu chuẩn định mức đúng với chính sách hiện hành. Đó chính là sự huy động các nguồn lực tài chính và đảm bảo nhu cầu chi tiêu theo kế hoạch của Nhà nước, thực hiện việc cân đối thu chi bằng tiền của Nhà nước.
    Chức năng thứ hai của NSNN là giám đốc quá tŕnh huy động các khoản thu và thực hiện các khoản chi. Thông qua chức năng này, NSNN kiểm tra, giám sát quá tŕnh động viên các nguồn thu, tránh t́nh trạng trốn lậu thuế, chây ỳ nộp thuế của các đối tượng thực hiện nghĩa vụ nộp NSNN hoặc bị lạm dụng, làm trái pháp luật, coi thường pháp luật và các chính sách động viên khác. Trong khâu cấp phát nếu buông lỏng việc kiểm tra, kiểm soát chi th́ dễ dẫn đến t́nh trạng làm sai luật định và các chế độ chi quy định. Đồng thời thông qua kiểm tra, kiểm soát hoạt động thu chi NSNN giúp ta giám sát việc chấp hành các chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước. Thông qua đó đánh giá hiệu quả kinh tế và hiệu quả xă hội của vốn NSNN, hiệu quả của các chủ trương, chính sách, chế độ do Đảng và Nhà nước đề ra.
    Như vậy, hai chức năng phân phối và giám đốc luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau, có vị trí và tầm quan trọng như nhau, không thể coi chức năng này hơn chức năng kia, mà phải coi trọng cả hai chức năng ở mọi lúc, mọi nới trong tạo lập và sử dụng vốn NSNN.
    b. Các khoản thu huy động vào NSNN và chi NSNN.
    * Các khoản thu NSNN.
    - Các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí.
    Đây là các khoản thu bắt buộc thực hiện nghĩa vụ của các doanh nghiệp, các tổ chức và công dân do những yêu cầu tất yếu về kinh tế - chính trị - xă hội để bảo đảm các hoạt động của bộ máy Nhà nước, giữ vững quốc pḥng, an ninh và bảo đảm các sự nghiệp xă hội.
    - Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước.
    Đây là các quan hệ thu thực hiện lợi Ưch kinh tế các loại tài sản và vốn bằng tiền thuộc sở hữu toàn dân giao cho Nhà nước quản lư và cho phép các chủ thể trong nền kinh tế sử dụng. Các quan hệ này cũng là bắt buộc, nhưng dựa trên các yếu tố kinh tế là đảm bảo cho chủ sở hữu thực hiện được lợi Ưch kinh tế, quyền sở hữu các loại tài sản đưa vào quá tŕnh sản xuÊt xă hội. Những ai sử dụng nhiều tài sản của Nhà nước vào mục đích kinh doanh trên các địa bàn và những ngành nghề có hiệu quả kinh tế cao th́ phải đóng góp nhiều vào NSNN.
    Tŕnh độ xă hội hóa càng cao, quy mô sở hữu càng lớn th́ nguồn thu tập trung vào NSNN và những nguồn lực tài chính cũng càng nhiều.
    Thực hiện thu đúng, thu đủ từ các h́nh thức này không chỉ đảm bảo nguồn lực tài chính cho Nhà nước, mà c̣n là h́nh thức cụ thể thực hiện quản lư chặt các tài sản thuộc sở hữu Nhà nước để bảo tồn và phát triÓn chế độ sở hữu toàn dân.
    - Các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân thuộc đối tượng phải đóng góp theo luật định.
    - Các khoản viện trợ: H́nh thức chủ yếu là viện trợ không hoàn lại, của các tổ chức, các tổ chức phi chính phủ của các nước và quốc tế. Nguồn thu này chủ yếu phụ thuộc vào đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Đây là nguồn thu nhất thời, không ổn định, không tính toán trước một cách chính xác.
    - Các khoản do Nhà nước vay để bù đắp bội chi được đưa vào cân đối NSNN.
    Khoản thu này được thực hiện thông qua quan hệ tín dụng Nhà nước trong nước và quốc tế để sử dụng vào mục đích đầu tư phát triển kinh tế. Đây là nguồn thu không thuộc quyền sở hữu Nhà nước, đến kỳ hạn Nhà nước phải thanh toán. V́ vậy, việc sử dụng h́nh thức này đ̣i hỏi các tổ chức Nhà nước phải tính toán nhu cầu đầu tư, hiệu quả kinh tế - xă hội của công tŕnh và khả năng thu hồi vốn để trả nợ.
    - Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
    * Các khoản chi lấy từ NSNN.
    Chi NSNN là một hệ thống các quan hệ rất đa dạng, phức tạp, bao gồm:
    - Các khoản chi phát triển kinh tế - xă hội.
    - Các khoản chi bảo đảm quốc pḥng, an ninh, bảo đảm hoạt động của bộ máy Nhà nước.
    Đây là những khoản chi bắt buộc trong NSNN của mọi quốc gia nhằm để giữ vững an ninh tổ quốc, ổn định chính trị - xă hội.
    Quy mô khoản chi này tuỳ thuộc vào việc xác định chức năng nhiệm vụ và tổ chức bộ máy Nhà nước xuất phát từ t́nh h́nh kinh tế - chính trị - xă hội ở trong nước và quốc tế. Trên cơ sở xác định quy mô chi tiêu cần thiết cho lĩnh vực này, tiến hành phân bổ các loại thuế trực thu và gián thu, thông qua thực thu các sắc thuế mà bảo đảm nguồn lực tài chính đầy đủ cho nhu cầu này.
    - Các khoản chi trả nợ củ Nhà nước: Tuỳ theo mức độ bội chi của ngân sách, quy mô và các điều kiện tín dụng Nhà nước về thời hạn trả nợ và mức lăi suất mà khoản chi này có tỷ lệ cao hay thấp trong tổng chi NSNN. Ở nước ta hiện nay, do hậu quả của việc quản lư vốn vay chưa tốt, để thất thoát lớn và việc sử dụng hiệu quả thấp, cho nên nợ nước ngoài tồn đọng rất lớn, cho nên chi trả nợ nước ngoài đang là vấn đề căng thẳng. Khả năng trả nợ thấp, tuy nhiên chúng ta vẫn phải đảm bảo uy tín trong quan hệ quốc tế. Để giải quyết vấn đề này, chúng ta cần khống chế nhu cầu chi tiêu trong nước để dành tiền trả nợ.
    Đối với vay từ nguồn trong nước dưới nhiều h́nh thức, trong đó chủ yếu là h́nh thức tín phiếu kho bạc Nhà nước ngắn hạn và tín phiếu dài hạn để huy động vốn trong dân vào nhu cầu đầu tư. Hướng chủ yếu của tín dụng Nhà nước là các khoản vay dài hạn đầu tư phát triển kinh tế. Nhưng h́nh thức này chỉ phát triển trong điều kiện sức mua đồng tiền ổn định và lăi suất hợp lư đem lại lợi Ưch người cho vay, đồng thời đảm bảo cho Nhà nước thanh toán được nợ.
    - Các khoản chi dự trữ Nhà nước (từ 3 - 5% tổng số dư). Đây là khoản dự pḥng cho những nhu cầu đột xuất bất trắc có thể xảy ra trong khi thực hiện nhiệm vụ của Nhà nước.
    - Các khoản chi viện chợ và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
    NSNN bao gồm hai cấp: Trung ương và địa phương. Quan hệ giữa hai cấp này được thực hiện theo nguyên tắc chủ yếu là phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể; thực hiện bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới để bảo đảm sự cân bằng, phát triển cân đối và thực hiện được nhiệm vụ của các vùng, các địa phương.
    NSNN được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích luỹ ngày càng cao vào đầu tư phát triển. Nếu có bội chi th́ số bội chi đó phải nhỏ hơn chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu - chi ngân sách. Nếu có vay để bù đắp bội chi NSNN th́ phải trên nguyên tắc tiền vay được không sử dụng cho tiêu dùng mà chỉ sử dụng vào mục đích phát triển và có kế hoạch thu hồi vốn vay để đảm bảo cân đối ngân sách, chủ động trả nợ đến hạn. Ngân sách địa phương được cân đối theo quy tắc: tổng số chi không được vượt quá tổng số thu .

    2. Chính sách tài khoá.
    Chính sách tài khoá là chính sách của Nhà nước trong việc huy động các nguồn thu vào NSNN và sử dụng nó trong hạn nhất định (thường là 1 năm).
    Chính sách tài khoá có tác động đến sản lượng thực tế, đến kiềm chế lạm phát và t́nh trạng thất nghiệp; có tác động đến điều chỉnh nền kinh tế, cơ cấu kinh tế. Mục tiêu của chính sách tài khoá là bảo đảm các nguồn lực tài chính, tạo môi trường và điều kiện cho phát triển kinh tế - xă hội. ĐÓ đạt được mục tiêu đó, chính sách tài khoá cần xử lư nhiều mối quan hệ, trong đó giải quyết đúng đắn những mâu thuẫn chủ yếu sau đây là nội dung cốt lơi của chính sách tài khoá:
    + Mâu thuẫn thu - chi NSNN. Đây là mâu thuẫn vốn có của bất kỳ một quốc gia nào, đặc biệt gay gắt đối với các nước kém phát triển. Xuất phát của mâu thuẫn này là do chi tiêu của Nhà nước lớn, trong khi nguồn thu bị hạn chế. V́ vậy, cần có những biện pháp tích cực để khống chế nhu cầu chi của Nhà nước. Đồng thời tích cực thu đúng, thu đủ, tận dụng các nguồn thu.
    Để thực hiện cân đối thu - chi, cần giữ vững 2 đối cân đối chủ yếu:
    Một là, thu từ các loại thuế trực thu và gián thu phải bảo đảm nhu cầu chi thường xuyên của bộ máy Nhà nước, quốc pḥng, an ninh .
    Hai là, quy mô đầu tư phát triển kinh tế - xă hội phải tương ứng với tổng số thu từ thực hiện lợi Ưch kinh tế các tài sản thuộc sở hữu Nhà nước và các nguồn lực huy động được trong nước và ngoài nước thông qua tín dụng dài hạn.
    + Mâu thuẫn giữa tập trung vào NSNN với tích luỹ trong các cơ sở kinh doanh. V́ vậy chính sách tài khoá cần giải quyết tốt mâu thuẫn này, đó là yêu cầu khách quan của phát triển kinh tế - xă hội.
    Mâu thuẫn này hiện nay ở nước ta đang gay gắt, biểu hiện ở chỗ tốc độ tăng thu vào NSNN năm sau cao hơn năm trước và lớn hơn nhiều lần so với tốc độ tăng tổng sản phẩm quốc dân, trong khi t́nh trạng thất thu từ thuế c̣n lớn.
    + Mẫu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế với việc thực hiện công bằng xă hội. Nguyên nhân của mâu thuẫn này: từ một mặt NSLĐ xă hội c̣n thấp kém, muốn tăng trưởng th́ phải tích luỹ, do đó tiêu dùng bị hạn chế, không giải quyết đúng mức những vấn đề xă hội cấp bách. Nếu ngược lại th́ không đảm bảo thực hiện được mục tiêu kinh tế. Mặt khác, do phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường, sẽ dẫn tới phân hoá giàu nghèo là không tránh khỏi. V́ vậy, để giải quyết mâu thuẫn trên, chính sách tài khoá phải thể hiện nội dung điều tiết thu nhập sao cho hợp lư.
    II. Bản chất, chức năng và vai tṛ của NSNN nói chung, của Hà Giang nói riêng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xă hội.
    1. Bản chất và chức năng của NSNN nói chung.
    Như trên đă tŕnh bày, NSNN là quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của Nhà nước, là công cụ vật chất quan trọng để điều tiết vĩ mô nền kinh tế - xă hội. Cho nên có thể nói chức năng và nhiệm vụ cơ bản của NSNN là động viên hợp lư các nguồn thu (đặc biệt là thuế, phí, lệ phí). Đồng thời tổ chức và quản lư chi tiêu NSNN, thực cân đối thu - chi. Tóm lại, NSNN có các chức năng, nhiệm vụ cơ bản sau đây:
    Một là, chức năng phân phối NSNN.
    Bộ máy Nhà nước muốn thực hiện được sự hoạt động của ḿnh một cách b́nh thường và ổn định để thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ là quản lư mọi mặt của đời sống xă hội của một quốc gia th́ nhất thiết phải có nguồn NSNN đảm bảo.
    Với quyền lực tối cao của ḿnh, Nhà nước sử dụng các công cụ, các biện pháp bắt buộc các thành viên trong xă hội cung cấp cho ḿnh các nguồn lực tài chính cần thiết. Nhưng cơ sở để h́nh thành nguồn lực tài chính đó là từ sự phát triển kinh tế, phát triển sản xuất kinh doanh. V́ vậy, muốn động viên được nguồn thu NSNN ngày càng tăng và có hiệu quả th́ nền kinh tế nói chung, sản xuất kinh doanh nói riêng phải được phát triển với tốc độ nhanh, bền vững và có hiệu quả cao. V́ vậy, Nhà nước trong quá tŕnh quản lư kinh tế - xă hội phải nắm được quy luật kinh tế và tôn trọng các quy luật kinh tế khách quan. Đồng thời phải bảo đảm hài hoà các quan hệ lợi Ưch của các chủ thể của nền kinh tế.
    Mét NSNN vững mạnh là một ngân sách mà cơ chế phân phối của nó đảm bảo được sự cân đối trên cơ sở khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh nuôi dưỡng nguồn thu, trên cơ sở đó tăng được thu để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước ngày càng tăng lên.
    Mặt khác, một NSNN vững mạnh c̣n phải thể hiện việc phân phối và quản lư chi đúng đắn, hợp lư và hiệu quả. Nhà nước sử dụng khối lượng tài chính từ nguồn NSNN để chi tiêu vào mục đích phát triển kinh tế - xă hội và chi tiêu cho sự hoạt động của bộ máy Nhà nước. Như vậy, chức năng của NSNN, ngoài việc động viên nguồn thu th́ c̣n phải thực hiện quản lư và phân phối chi tiêu sao cho có hiệu quả. Đó cũng là một tất yếu khách quan.
    Từ sự phân tích trên đây, ta có thể hiểu được bản chất của NSNN - đó là hệ thống các mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các thành viên trong xă hội, phát sinh trong quá tŕnh Nhà nước huy động và sử dụng các nguồn lực tài chính nhằm đảm bảo yêu cầu thực hiện trong các chức năng quản lư và điều hành nền kinh tế - xă hội của Nhà nước. Hoạt động của NSNN luôn luôn gắn liền với thực hiện các chức năng của Nhà nước.
    Hai là, chức năng giám đốc quá tŕnh huy động các nguồn thu và thực hiện các khoản chi tiêu.
    Thực hiện chức năng này, Nhà nước thông qua NSNN để biết được nguồn thu - chi nào là cơ bản của từng thời kỳ, từng giai đoạn và do đó có những giải pháp để làm tốt thu - chi. Nhà nước định ra cơ cấu thu- chi hợp lư ; theo dơi các phát sinh và những nhân tố ảnh hưởng đến thu- chi .
    Tóm lại, NSNN có hai chức năng cơ bản- chức năng phân phối và chức năng giám đốc. NSNN không thể cân đối được nếu như không thực hiện đầy đủ hai chức năng đó, bởi v́: nếu không có sự giám đốc trong việc động viên khai thác hợp lư các nguồn thu và do đó sẽ dẫn đến t́nh trạng thất thu dưới nhiều h́nh thức. Nếu không thực hiện tốt chức năng phân phối th́ cũng không thể động viên được nguồn thu cho NSNN.
    Chức năng phân phối và chức năng giám đốc của NSNN đều có vị trí và tầm quan trọng của nó. Do đó, cần phải coi trọng cả hai chức năng đó và tổ chức chỉ đạo để các cơ quan chức năng thực hiện tốt hai chức năng đó của NSNN.
    2. Quan điểm cơ bản về quản lư và sử dụng NSNN.
    Để thực hiện tốt công tác quản lư và sử dụng NSNN, tuỳ theo chức năng, nhiệm vụ của từng cấp, từng ngành, cần phải quán triệt các quan điểm sau đây:
    + Trong chính sách tạo vốn của NSNN phải quán triệt tư tưởng không tận thu để bao chi, mà phải động viên nguồn thu ngân sách một cách hợp lư để đáp ứng nhu cầu chi trên cơ sở vừa bồi dưỡng và phát triển nguồn thu, vừa kiểm soát và tập trung khai thác một cách hợp lư và có hiệu quả các nguồn thu.
    + Thực hiện tốt công tác phân phối và sử dụng vốn NSNN theo nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả, chấm dứt t́nh trạng các khoản chi bao cấp tràn lan của cơ chế cũ trước đây. Thực hiện phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm.
    + Thực hiện phương pháp cân đối ngân sách một cách khoa học để vừa phát huy tốt các nguồn lực bên trong và tranh thủ cao độ, có hiệu quả nguồn lực tài chính bên ngoài; vừa phù hợp với pháp luật của Nhà nước ta, vừa phù hợp với thông lệ quốc tế và bảo đảm sự chủ động của NSNN.
    + Đổi mới chế độ phân cấp quản lư NSNN theo hướng giảm bớt chức năng quản lư kinh tế của chính quyền địa phương, tránh để t́nh trạng phân tán và sử dụng kém hiệu quả nguồn vốn ngân sách.
    + Ban hành đồng bộ hoá và tiếp tục hoàn thiện luật NSNN. Đồng thời giáo dục, nâng cao tŕnh độ cho toàn dân, cho các chủ thể của nền kinh tế cũng như tŕnh độ chuyên môn nghiệp vụ của cơ quan chức năng trực tiếp làm công tác quản lư NSNN. Nghiêm chỉnh chấp hành luật NSNN.
    3. Vai tṛ của NSNN trong các lĩnh vực kinh tế - chính trị - xă hội.
    Chóng ta biết rằng, trong cơ chế thị trường, mọi hoạt động kinh tế, sản xuất kinh doanh chủ yếu của các thành phần kinh tế, các ngành kinh tế chủ yếu tuân theo sự điều tiết của các quy luật vốn có của thị trường. Nhận thức được điều đó, Nhà nước ta đă có những cơ chế, chính sách hạn chế sự can thiệp và kiểm soát trực tiếp đối với các hoạt động kinh tế, nhất là các hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhà nước ta với chức năng của ḿnh là thực hiện quản lư hành chính kinh tế bằng các công cụ pháp luật, kế hoạch hoá và các chính sách do Nhà nước ban hành tuân theo pháp luật hiện hành do cơ quan quyền lực cao nhất là Quốc hội ban hành. Đó chính là sự đổi mới cơ bản về cơ chế quản lư của Nhà nước ta: từ chỗ quản lư, điều hành nên kinh tế một cách trực tiếp đến chỗ quản lư và điều hành mọi hoạt động kinh tế- xă hội thông qua việc tạo mọi điều kiện, môi trường, hành lang (trong đó có cả hành lang pháp lư) để cho nền kinh tế phát triển vừa tuân theo qui lụt kinh tế khách quan, vừa bảo đảm sự định hướng XHCN, nhằm nhanh chóng đạt được các mục tiêu mà Đảng ta đă đề ra trong các kỳ đại hội.
    Trong tÊt cả các công cụ để quản lư mọi hoạt động kinh tế- xă hội, Nhà nước ta hết sức quan tâm đến công cụ NSNN, v́ nó là yếu tố vật chất vô cùng quan trọng trong điều kiện của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
    Với cơ chế cũ trước đây, Nhà nước can thiệp sâu vào hoạt động kinh tế vi mô. Trong cơ chế mới- cơ chế thị trường các vấn đề của kinh tế sẽ được giải quyết theo qui luật của thị trường và các quan hệ cung- cầu. Nhà nước chỉ dùng các biện pháp về thuế, các khoản chi ngân sách để can thiệp nhằm ổn định nên kinh tế và phát triển theo mục tiêu đă định.
     
Đang tải...