Chuyên Đề Một số vấn đề về đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp công nghiệp ở Việt Nam

Thảo luận trong 'Khảo Cổ Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Đề tài: Một số vấn đề về đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp công nghiệp ở Việt Nam

    Lời nói đầu

    Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới đang diễn ra mạnh mẽ, những thành tựu to lớn của nó đă và đang đẩy nhanh sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất, làm chuyển biến mạnh mẽ cơ cấu kinh tế, làm thay đổi mọi mặt đời sống kinh tế - xă hội của các nước trên thế giới. Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của khoa học và công nghệ hiện đại, Đảng ta đă khẳng định từ nay đến năm 2020 phấn đấu xây dựng nước ta cơ bản thành nước công nghiệp, khoa học và công nghệ phải trở thành nền tảng và động lực cho công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Theo hướng đó các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam phải coi đổi mới công nghệ là một biện pháp chủ yếu hàng đầu để phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh - dịch vụ.
    Tuy nhiên, đối với nước ta cũng như các nước đang phát triển, việc đầu tư đổi mới công nghệ không phải là một việc làm đơn giản và dễ dàng. Người ta đă ví công nghệ là trờ chơi của người giàu, ước mơ của người nghèo và là ch́a khoá của người khôn ngoan. Chóng ta muốn và rất muốn công nghệ là ch́a khoá để chúng ta mở cửa hội nhập, theo kịp thế giới. Điều mong muốn tốt đẹp Êy chỉ là thực tế khi chóng ta biết phân tích và lùa chọn công nghệ nhập thích hợp và có ư chí tự lực phấn đấu nâng cao năng lực nội sinh, nắm bắt và làm chủ công nghệ tiến tới xuất khẩu công nghệ.
    Để nhận thức rơ hơn vấn đề đặt ra ở trên, em chọn đề tài
    "Một số vấn đề về đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp công nghệp ở Việt Nam"
    V́ khả năng có hạn, bài viết không tránh khỏi những khiếm khuyết, em rất mong sự đóng góp ư kiến, hướng dẫn của thầy cô để bài viết được hoàn thiện hơn.



    Phần nội dungCHƯƠNG I
    Phương pháp luận về vấn đề đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp
    I. Một số vấn đề chung:
    1. Công nghệ là ǵ?
    Bước vào thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, thế giới đă và đang chứng kiến những biến đổi lớn lao của nền văn minh nhân loại mà động lực chủ yếu là cuộc cách mạng khoa học và kỹ thuật. Khoa học - kỹ thuật đă trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, trong đó cuộc cách mạng công nghệ là cốt lơi, ở đó thông tin tri thức, tay nghề cùng với sự sáng tạo, tài năng quản lư, nhân cách đang trở thành những nguồn lực cho phát triển. Nói cách khác, công nghệ là ch́a khoá để làm chủ sự phát triển kinh tế - xă hội, ai nắm được công nghệ người đó sẽ làm chủ được tương lai. Vậy công nghệ là ǵ?
    Tuỳ theo lĩnh vực nghiên cứu và đối tượng áo dụng, hiện nay trên thế giới người ta đưa ra nhiều khái niệm khác nhau. Các Mác từng cho rằng, công nghệ là một phức hợp những kiến thức khoa học và kỹ thuật về các phương thức và phương pháp sản xuất, tổ chức và quản lư sản xuất, và như vậy chủ yếu nó chỉ liên quan tăi quá tŕnh sản xuất. Công nghệ bộc lé mối liên hệ tích cực của con người đối với thiên nhiên, đó là quá tŕnh trực tiếp tạo ra cuộc sống của con người, đồng thời cả những điều kiện xă hội và những khái niệm tinh thần bắt nguồn từ những điều kiện trên.
    Theo từ điển thuật ngữ khoa học - kỹ thuật của Liên Xô (cũ): "Công nghệ là tập hợp các quá tŕnh, quy tắc, kỹ năng được áp dụng khi sản xuất một loại h́nh sản phẩm vào đó trong bất kỳ lĩnh vực hoạt động nào. Thành phần quan trọng nhất của công nghệ là quá tŕnh công nghệ, tŕnh tự thao tác công nghệ nhằm tạo ra một đối tượng nhất định mà mỗi tác động lại dùa vào các quá tŕnh tự nhiên nào đó và hoạt động của con người. Công nghệ là sản phẩm đồng thời là nguồn phát triển của nền văn minh" (R.G.Ianôpxki 1987).
    Dưới góc độ nghiên cứu công nghệ để phục vụ cho công tác quản lư và thúc đẩy các hoạt động công nghệ, Trung tâm chuyển giao công nghệ khu vực Châu Á - Thái B́nh Dương đă đưa ra khái niệm sau: Công nghệ là tập hợp các công cụ, phương tiện dùng để biến đổi các nguồn lực tự nhiên, nguồn lực sản xuất trung gian thành hàng hoá tiêu dùng hoặc thành nguồn lực sản xuất trung gian khác.
    Chóng ta có thể hiểu một cách tổng quát: Công nghệ là tập hợp các công cụ, phương tiện dùng để biến đổi các nguồn lực sản xuất thành sản phẩm v́ mục đích sinh lợi.
    "Công cụ" và "phương tiện" ở đây được hiểu theo nghĩa rộng. Nó không chỉ là những công cụ vật chất của sản xuất mà c̣n là bất kỳ công cụ và bí quyết có liên quan nào được dùng để chế tạo và sử dụng công cụ vật chất đó để thực hiện các hoạt động biến đổi. Hơn nữa, khi nói về công nghệ, nó c̣n được hiểu đó là các kiến thức và kinh nghiệm về khoa học - kỹ thuật, sản xuất, quản lư và thương mại.
    Như vậy, công nghệ là một tập hợp các phương pháp các quy tắc, các kỹ năng được sử dụng để tác động vào đối tượng lao động nhằm tạo ra một sản phẩm nào đó. Nói cách khác, công nghệ làm tăng khả năng cơ bắp và trí tuệ của con người trong quá tŕnh chinh phục thiên nhiên và sự phát triển kinh tế - xă hội. Tất nhiên, muốn tác động có hiệu quả thường phải thông qua các phương tiện vật chất, công cụ lao động V́ vậy, khi nói tới công nghệ chúng ta phải xem xét cả hai khía cạnh được gọi là "phần mềm" và "phần cứng". Phần cứng là biểu hiện của máy móc, trang bị, công cụ, năng lực, nguyên vật liệu; Phần mềm là các vấn đề kỹ năng, thông tin, tổ chức, quản lư.
    2. Các thành phần cơ bản của công nghệ:
    Theo quan điểm phổ biến hiện nay th́ công nghệ bao gồm 4 thành phần cơ bản tác động qua lại với nhau để tạo ra bất kỳ sự biến đổi nào.
    Một là, công nghệ hàm chứa trong máy móc, trang bị, công cụ, nguyên vật liệu. Phần này được gọi là phần kỹ thuật của công nghệ, biểu thị phương tiện vật chất, làm tăng thêm sức mạng cơ bắp và trí tuệ của con người.
    Hai là, công nghệ hàm chứa trong con người như kỹ năng, kinh nghiệm, tính sáng tạo, sự khôn ngoan, gia truyền, khả năng lănh đạo, đạo đức kinh doanh, tính cần cù, trực cảm tài nghệ Phần này được gọi là phần con người của công nghệ, biểu thị năng lực của con người, tạo ra sự vận động và duy tŕ hoạt động của mọi phương tiện biến đổi.
    Ba là, công nghệ hàm chứa trong tài liệu như dữ kiện, thiết kế, khái niệm, phương pháp, kế hoạch, các định mức, chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật. Phần này được gọi là phần thông tin của công nghệ, biểu thị những vấn đề đă được tư liệu hoá, tồn trữ các tri thức đă được tích luỹ để rút ngắn thời gian, hoạt động của con người.
    Bốn là, công nghệ hàm chứa trong thể chế như thẩm quyền, trách nhiệm, tác động qua lại, sự liên kết phối hợp, điều hành hoạt động, động cơ Phần này gọi là phần tổ chức để cho việc hoạch định chiến lược, kế hoạch, tổ chức động viên, thúc đẩy và kiểm soát các hoạt động với thành phần công nghệ được hiện thân trong thể chế và khoa học quản lư trở thành nguồn lực.
    Tất cả bốn thành phần công nghệ trên tác động qua lại với một tŕnh độ phức tạp, tinh vi từ đơn giản nhất đến tiên tiến nhất, không có sự biến đổi nào có thể xảy ra mà thiếu hẳn một trong bốn thành phần đó.
    3. Vai tṛ của công nghệ:
    Lịch sử của xă hội lại người là lịch sử của quá tŕnh đấu tranh với thiên nhiên để tồn tại và phát triển. Trong suốt chiều dài lịch sử đó, con người luôn sử dụng công nghệ để tăng cường sức mạnh của ḿnh và càng ngày càng trở nên hoàn thiện hon.
    Về mặt vật chất, đó là quá tŕnh biến đổi các nguồn lực tự nhiên thành các sản phẩm phục vụ cuộc sống con ngựi. Công nghệ được hiểu là phương tiện, công cụ dùng để biến đổi trong các quá tŕnh đó.
    Mét trong những đặc điểm nổi bật của các hoạt động của con người là làm ra và sử dụng rất nhiều loại phương tiện, công cụ vật chất để làm tăng thêm sức mạnh cơ bắp và sức mạnh trí tuệ của ḿnh. Nhờ mở rộng được sức mạnh vật chất và tinh thần của từng cá nhân và tập thể, công nghệ đă cho phép con người xuất phát từ một sự tiến hoá thuần tuư sinh vật sang mét giai đoạn tiến hoá mang tính chất trí tuệ. Thật vậy, bước qua xă hội hoang sơ với săn bắt và hái lượm, nhờ công nghệ chăn nuôi và trồng trọt con người đă khẳng định được cuộc sống của ḿnh trong tự nhiên và xác lập nền văn minh nông nghiệp. Tuy nhiên nền văn minh nông nghiệp cũng trăi trặt con người vào tự nhiên. Măi cho đến cuối thế kỷ XVIII, công nghệ cơ khí - máy móc với máy dệt, máy hơi nước, máy điện đă làm tăng năng suất lao động xă hội lên gấp bội. Công nghệ khai thác mỏ với than đá, dầu khí đă góp phần thắp sáng cuộc cách mạng công nghiệp, làm xuất hiện nền văn minh công nghiệp. Từ đó, con người Ưt phụ thuộc hơn vào thiên nhiên mà phụ thuộc nhiều hơn vào công nghệ.
    Trong thế giới hiện đại ngày nay, từ nhà kinh doanh muốn giành ưu thế trong cạnh tranh đến các nhà lănh đạo quốc gia muốn đưa đất nước ra khỏi nghèo nàn lạc hậu đều phải t́m câu trả lời trong những chính sách cụ thể về phát triển công nghệ. Mối quan hệ giữa công nghệ và quá tŕnh biến đổi xă hội trở nên vô cùng phức tạp, thúc đẩy lẫn nhau và bao trùm rộng khắp các lĩnh vực hoạt động của con người.
    Cùng với sự phát triển của công nghệ, con người từ chỗ bắt chước đă tiến tới thách đố tự nhiên. Từ hoàn thiện công nghệ khai thác kim cương tự nhiên, con ngựi đă t́m ra phương pháp chế tạo kim cương nhân tạo ở quy mô công nghiệp. Từ t́m kiếm công nghệ chế tạo cao su nhân tạo thay thế cao su tự nhiên, Từ chọn lọc cá thể giống cây trồng, vật nuôi quư sẵn có trong tự nhiên, các nhà sinh học và công nghệ học đă t́m ra hướng công nghệ tạo ra các giống cây theo ư muốn con người mà đại diện là sản phẩm chú cừu "Dolly" nhân bản làm chấn động thế giới trong năm 1997.
    C̣ng so sự phát triển của công nghệ, nhờ phổ cập các công nghệ không phế thải, công nghệ chế tạo vật liệu mới, với việc cài đặt các bộ vi xử lư vào các thiết bị công nghệ, với các hệ thống tự động hoá điều khiển quá tŕnh công nghệ con người đă có thể chế tạo ra các sản phẩm và dịch vụ với suất tiêu hao năng lượng và nguyên vật liệu Ưt hơn nhiều lần so với công nghệ truyền thống.
    Gần 2000 năm qua, công nghệ - thương mại - dịch vụ đă tạo nên một trục quan trọng trong xă hội công nghiệp với một lực lượng sản xuất hàng hoá hùng hậu, trong một thị trường sống động và cũng đầy sự phân chia, giành giật khốc liệt
    Khi nói về vai tṛ của công nghệ đối với sự biến đổi và phát triển xă hội, Tiến sĩ N. Shrif - Giám đốc Trung tâm chuyển giao công nghệ Châu Á - Thái B́nh Dương đă nhận xét đại ư như sau: Kinh nghiệm phát triển của các nước trên thế giới chỉ ra rằng, quy mô dân số và tài nguyên thiên nhiên không thể đảm bảo cho sự thành công kinh tế của một nhân tố rất quyết định khả năng của một quốc gia để tiến nhanh hơn với mục tiêu phát triển kinh tế - xă hội.
    Trong thế giới ngày nay, công nghệ mang lại ḷng tin, niềm hy vọng vào giá trị cho cả nhân loại. Với sự cách biể ngày càng lớn giữa người giàu và người nghèo, vai tṛ quyết định của công nghệ đă trở nên hàng đầu. Ngày nay, có lẽ nó là hy vọng duy nhất để xoá bỏ sự cách biệt đó.
    Về vai tṛ của công nghệ đối với các nước đang phát triển chúng ta thấy rằng, lịch sử phát triển công nghệ thế giới do nhiều nguyên nhân khác nhau nên không phải lúc nào nước có tác giả của các phát minh cũng là nước đầu tiên gặt hái thành quả công nghệ của chính ḿnh. Và những nước lập kỷ lục "thần kỳ" về phát triển kinh tế trong những thập niên vừa qua lại không là các cường quốc sáng tạo công nghệ. Bởi vậy, những nhà dự báo cho rằng trong những thập kỷ tới "tương lai sẽ thuộc về những nước có tiềm năng ứng dụng".
    II. Phương pháp về đổi mới công nghệ.
    1. Sự cần thiết phải lùa chọn công nghệ.
    Trong điều kiện hiện nay, nếu xét trên quy mô toàn thế giới th́ công nghệ mới là sản phẩm của các hoạt động nghiên cứu khoa học nghiêm túc. Nhưng ngày nay, xu thế chuyên môn hoá ngày càng tỏ rơ ưu thế và sự phụ thuộc lẫn nhau trên thế giới ngày càng tăng, mặt khác lợi thế lịch sử ngày nay cho phép các nước đang phát triển không phải tự tạo ra tất cả những công nghệ cần thiết để đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. V́ vậy, đối với các nước đi sau trong hoạch định chiến lược công nghệ đều phải lùa chọn phương án hợp lư là: "Mua một số và làm một số" để phát triển công nghệ của ḿnh. Nghĩa là dùa trên đặc thù, lợi thế quốc gia của ḿnh mà triển khai của hai tuyến: làm công nghệ và mua công nghệ. Nhưng nhập công nghệ nào? Việc lùa chọn được công nghệ có hiệu quả, phát huy được ưu thế của nước nhà, tiết kiệm được sức nguồn sức của, rút ngắn được chặng đường công nghiệp hoá là một nhiệm vụ quan trọng đối với các nhà lănh đạo, các nhà quản lư và các nhà khoa học. Đó là một định hướng chính xác. Sự định hướng chính xác sẽ là lực đẩy rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế của đất nước. Mặt khác. sự mở rộng hợp tác kinh tế trên thế giới cho phép chúng ta có cơ hội tốt để đổi mới công nghệ, áp dụng kỹ thuật hiện đại, xây dựng những ngành công nghệ tiên tiến, tận dụng những ưu thế vốn có của chúng ta để thúc đẩy nhanh quá tŕnh công nghiệp hoá. Song sự phát triển kinh tế của các nước trên thế giới rất đa dạng, phong phú, v́ vậy lùa chọn công nghệ nào, từ nước nào là một điều chúng ta phải cân nhắc cẩn thận. Do tŕnh độ phát triển của mỗi nước mà chúng ta có thể mua công nghệ rất khác nhau nên kỹ thuật mà chúng ta nhập từ các nước đó cũng không hoàn toàn giống nhau. Mặt khác, mỗi nước đều có thế mạnh riêng của họ nên có thể có công nghệ tiên tiến nhưng lại không phải là nước có tŕnh độ phát triển cao nhất.
    Thông thường, cùng một loại công nghệ nhưng nếu ta mua của những nước tiên tiến sẽ đắt hơn nhiều so với khi mua loại công nghệ Êy của các nước đang phát triển.
    Trên thị trường công nghệ cũng như mọi thị trường hàng hoá khác, giá cả được h́nh thành do quan hệ cung - cầu. Mục đích của người bán là lợi nhuận, nên bất kể công nghệ tiên tiến hay lạc hậu họ đều có thể bán nếu có người mua và họ thu được lợi nhuận. Về phía chúng ta, tham gia vào thị trường công nghệ với tư cách là người tiêu dùng hàng hoá "công nghệ", chúng ta mua công nghệ nhằm "thoả măn tốt nhất lợi Ưch của ḿnh", tức là phát triển kinh tế, là công nghiệp nước nhà. Thêm vào đó, v́ là người tiêu dùng chúng ta không thể tiêu dùng quá khả năng của ḿnh, nghĩa là chúng ta mua công nghệ nhằm phát triển kinh tế của đất nước với những ràng buộc về tài chính, tŕnh độ kỹ thuật và quản lư hiện thời của ḿnh.
    Do vậy, để phát triển nền kinh tế đất nước, chúng ta cần phải lùa chọn những công nghệ tốt nhất nhưng phải phù hợp với điều kiện của ta.
    2. Đánh giá tŕnh độ công nghệ của sản xuất công nghiệp.
    Chóng ta hay điểm qua vấn đề đánh giá công nghiệp, một việc đă và đang làm ở các nước phát triển và một số nước trên phát triển. Đánh giá công nghệ bắt nguồn từ điểm giao nhau của hai quan điểm. Công nghệ thích hợp và những quyết định khoa học, xuất phát từ nhận thức cho rằng không phải tất cả các công nghệ hay đổi mới đều mang lại văn minh cho một xă hội. Trong thực tế, đây là một công việc đang gặp phải squá nhiều khó khăn, vướng mắc, nhất là về mặt phương pháp luận. Đánh giá công nghệ là cơ sở để đưa ra các quyết về chính sách công nghệ, về kế hoạch phát triển công nghệ và từ đó để lùa chọn công nghệ thích hợp nhằm phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế - xă hội của đất nước. Sự gắn kết giữa hoạt động khoa học và công nghệ với sản xuất là yêu cầu cấp bách nhằm thúc đẩy sản xuất, thực hiện tốt công nghiệp hoá - hiện đại hoá nước nhà.
    Xuất xứ của vấn đề là nhằm hạn chế mặt xấu của công nghệ đối với môi trường tự nhiên. Đến nay, mục tiêu của đánh giá công nghệ được mở rộng, không những chỉ nhằm ngăn chặn sự suy giảm chất lượng cuộc sống về mặt sinh học mà c̣n ngăn chặn ảnh hưởng xấu đến hệ sinh thái. Xu hướng mới là tối đa hoá sự ổn định các ảnh hưởng tốt của công nghệ và phát triển công nghệ phù hợp với môi trường xung quanh theo nghĩa rộng. Trên thực tế chỉ các nước phát triển mới có điều kiện để giải quyết vấn đề tối đa hoá các yếu tố tích cực của công nghệ, c̣n các nước đang phát triển th́ chỉ mới có khả năng áp dụng các biện pháp nhằm hạn chế mặt tiêu cực của công nghệ đối với môi trường tự nhiên mà thôi. Theo ư kiến của Trung tâm chuyển giao công nghệ khu vực Châu Á - Thái B́nh Dương th́ mục tiêu của đánh giá công nghệ đối với các nước đang phát triển là:
    - Đánh giá tính thích hợp của các công nghệ cần được chuyển giao và thích nghi.
    - Lùa chọn các công nghệ để phát triển.
    - Kiểm soát các công nghệ không thích hợp để bảo vệ môi trường.
    Đánh giá công nghệ được tiến hành nhàm các mục tiêu trên khi nào thể chế hoá được nó trong quá tŕnh kế hoạch phát triển kinh tế - xă hội nghĩa là khi đánh giá công nghệ được coi là bộ phận hợp thành của quá tŕnh ra quyết định, do đó đánh giá công nghệ không chỉ công cụ quan trọng đối với các nhà doanh nghiệp, các nhà môi trường sinh thái mà c̣n là yếu tố quan trọng giúp các nhà hoạch định chính sách vĩ mô cân nhắc khi ra các quyết định kinh tế - xă hội.
    3. H́nh thức đổi mới công nghệ và những vấn đề đặt ra:
    Đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp ở nước ta diễn ra dưới hai h́nh thức chủ yếu:
    - Thông qua liên doanh, liên kết với các Công ty nước ngoài tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới.
    - Tù đầu tư để đổi mới công nghệ.



    3.1. Khó khăn, thuận lợi của bên cung cấp công nghệ.
    - Về những rủi ro:
    + Bất lợi thứ nhất là tạo thêm cạnh tranh.
    + Bất lợi thứ hai là cách ly với khách hàng.
    + Bất lợi thứ ba là giảm bớt sự kiểm soát về số lượng, chất lượng, thời gian giao hàng và sự phát triển thị trường.
    + Bất lợi thứ tư là có khả năng bên cung cấp công nghệ bị mất những chuyên gia có kinh nghiệm do bên nhận công nghệ quan hệ, lôi kéo họ làm việc cho ḿnh. Bằng cách này bên nhận công nghệ có thể khai thác được nhiều thông tin và kinh nghiệm quan trọng.
    + Bất lợi cuối cùng là những rủi ro về hợp đồng nhu không thanh toán tiền kỳ vụ, tiền công chậm trễ trong sản xuất
    - Về những thuận lợi:
    + Cải tiến và thích ứng công nghệ với điều kiện của nước sở tại.
    + Những lợi Ưch không định trước như quá tŕnh sản xuất của bên sở tại dẫn tới những đề án đa dạng hoá cụ thể mà bên cung cấp công nghệ chưa nghĩ tới. Bên cung cấp có thể tham gia vào quá tŕnh đó bằng góp vốn liên doanh với các nước sở tại hoặc các nước bên thứ ba. Và sẽ thêm lợi nhuận ngoài hợp đồng đă thoả thuận.
    + Tăng thêm lợi nhuận mà không cần sản xuất.
    + Tiếp cận nhanh các thị trường mới.
    + Sử dụng lao động rẻ và lành nghề vốn có số lượng đáng kể ở các nước Châu Á.
    + Sử dụng được tài nguyên cho sản xuất mà các nước đang phát triển, nhất là Châu Á rất phong phó.
    + Xâm nhập lẫn nhau về công nghệ, thông qua chuyển giao công nghệ, việc trao đổi công nghệ lẫn nhau giữa hai phía là vấn đề quan trọng, tuy nhiên vấn đề này chỉ xảy ra giữa các nước phát triển.
    + Những ràng buộc có lợi như có thể bán được vật liệu, thiết bị cho bên tiếp nhận công nghệ.
    + Tạo uy tín với khách hàng qua việc bên nhận công nghệ bắt đầu sản xuất và bán các sản phẩm của bên cung cấp công nghệ với danh nghĩa: "sản xuất theo Lixang của " hoặc theo "nhăn hiệu của "
    3.2. Khó khăn, thuận lợi của bên nhận công nghệ:
    - Những rủi ro:
    + Tiến bộ kỹ thuật đi đôi với sự lệ thuộc vào bên cung cấp cho tới giai đoạn hoàn toàn làm chủ được công nghệ nhập đó.
    + Có thể rủi ro, thất bại về mặt kỹ thuật của việc chuyển giao thậm chí dẫn tới chấm dứt quá tŕnh chuyển giao nếu bên nhận công nghệ không đánh giá đầy đủ năng lực và các điều kiện tiếp nhận của họ.
    + Những rủi ro xuất phát từ bản thân bên cung cấp công nghệ và kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng của chính công nghệ chuyển giao.
    Do thiếu kinh nghiệm lại không sử dụng cố vấn và luật sư nên thường chấp nhận đàm phán và hợp đồng với những điều bất lợi khi nhận công nghệ.
    - Những thuận lợi:
    + Thu được kiến thức kỹ thuật mà không phải chi phí tốn kém và mất thời gian cho các hoạt động nghiên cứu - triển khai.
    + Tạo được sự tiến bộ đáng kể về thương mại và kỹ thuật thông qua nhận công nghệ chuyển giao từ nước ngoài.
    + Có thể thường xuyên tiếp xúc, trao đổi ư kiến, thu thập thông tin và kinh nghiệm phục vụ cho lợi Ưch của ḿnh.
     
Đang tải...