Tài liệu Một số vấn đề pháp lý về hoạt động NQTM dưới góc độ PLCT ở Việt Nam

Thảo luận trong 'Luật Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    ĐỀ TÀI: Một số vấn đề pháp lý về hoạt động NQTM dưới góc độ PLCT ở Việt Nam


    LỜI NÓI ĐẦU

    Theo đánh giá của các chuyên gia, phương thức kinh doanh thông qua mô h́nh NQTM là một cơ hội kinh doanh mới cho các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là những doanh nghiệp có tham vọng song chưa đủ sức tấn công vào các thị trường lớn như Mỹ, Nhật, Châu Âu. Mô h́nh NQTM sẽ giúp họ xâm nhập một cách gián tiếp vào các thị trường này với chi phí thấp nhất. Tuy nhiên, trở ngại đối với các doanh nghiệp này chính là từ trước tới nay, do mô h́nh NQTM không xuất hiện nhiều tại Việt Nam, nên phần lớn là các doanh nghiệp sẽ phải tự ṃ mẫm học hỏi và v́ vậy, họ rất dễ trở thành nạn nhân của mặt trái của mô h́nh này như bị “nhái” nhăn hiệu, hoặc để bảo vệ quyền sở hữu đối với các bí mật kinh doanh của ḿnh mà có những quy định trong hợp đồng NQTM vi phạm PLCT của các quốc gia khác mà doanh nghiệp có hoạt động nhượng quyền. Chính v́ thế mà ngoài việc quan tâm đến phẩm chất đạo đức của các đối tượng mà ḿnh trao quyền, các doanh nghiệp cần rất thận trọng trong khâu làm hợp đồng để tránh những sai phạm không đáng có, tránh “tầm” điều chỉnh của PLCT của các quốc gia này. Với mong muốn t́m hiểu hành lang pháp lư cho hoạt động NQTM, mà đặc biệt là các quy định pháp luật về NQTM nhưng có liên quan đến các lĩnh vực luật khác, trong đó bao gồm Luật cạnh tranh, em đă quyết định chọn đề tài: “Một số vấn đề pháp lư về hoạt động NQTM dưới góc độ PLCT ở Việt Nam” làm khoá luận tốt nghiệp của ḿnh. Ngoài lời nói đầu, kết luận, khoá luận gồm có 3 chương:
    - Chương 1: Khái quát về hoạt động NQTM và pháp luật về NQTM.
    - Chương 2: Một số vấn đề pháp lư về hoạt động NQTM dưới góc độ PLCT.
    - Chương 3: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về
    NQTM dưới góc độ PLCT.
    CHƯƠNG I
    KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG NQTM VÀ PHÁP LUẬT VỀ NQTM
    1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG NQTM
    1.1.1. Khái lược về lịch sử h́nh thành và phát triển của hoạt động NQTM
    trên thế giới
    Trong những năm qua NQTM (Franchise) đă phát triển rất mạnh mẽ trên thế giới, nhưng đối với Việt Nam th́ đây vẫn là một khái niệm c̣n nhiều xa lạ.
    Đi t́m nguồn gốc của hoạt động này có nhiều ư kiến khác nhau trong đó quan điểm cho rằng hoạt động NQTM bắt đầu xuất hiện từ nước Mỹ vào khoảng những năm 1850 có lẽ là phổ biến hơn cả [11]. Sự phát triển của NQTM tăng tốc trong những năm 30 của thế kỷ XX, khi bắt đầu tiến hành nhượng quyền các loại h́nh khách sạn bên đường quốc lộ dành cho khách đi ôtô. Những năm 50 của thế kỷ XX chứng kiến sự bùng nổ của hệ thống nhượng quyền cùng với sự phát triển của hệ thống đường cao tốc nối liền các tiểu bang của Hoa Kỳ. Hệ thống các nhà hàng ăn nhanh, quán ăn rẻ tiền và khách sạn bên đường quốc lộ đua nhau mọc lên. Năm 2000, NQTM chiếm khoảng 40% doanh thu bán lẻ của Hoa Kỳ [32]. Chỉ đến những năm 1980 hoạt động NQTM sau đó mới lan rộng và diễn ra một cách mạnh mẽ ở các nước khác [11], sở dĩ là v́ lúc này các nước mới phát hiện được tiềm năng đem lại lợi nhuận cao của lĩnh vực này.
    Sự phát triển ồ ạt của NQTM đă dẫn tới sự ra đời của Hiệp hội Nhượng quyền quốc tế IFA (International Franchise Association) vào năm 1960, Ủy ban Franchise thế giới (World Franchise Council – WFC) năm 1994. Sự ra đời của IFA, WFC đă tạo điều kiện cho việc phát triển NQTM dần trở thành hệ thống và ngày càng trở nên chuyên nghiệp hơn. Bởi vậy mà hiện nay kinh doanh theo phương thức NQTM đă có mặt tại hầu hết các châu lục, trong rất nhiều ngành nghề. Theo số liệu của pḥng thương mại Mỹ th́ từ năm 1974 đến năm 2005

    trung b́nh chỉ có 5% số doanh nghiệp h́nh thành theo mô h́nh nhượng quyền kinh doanh tại Mỹ là thất bại, trong khi con số này là 30-65% cho các doanh nghiệp không theo mô h́nh nhượng quyền. Sự phát triển của h́nh thức kinh doanh này c̣n thể hiện ở ngay việc trong năm 2005 có tới 12/52 tiểu bang của Mỹ đều có luật bắt buộc bất kỳ công ty nào muốn tham gia vào thị trường chứng khoán đều phải có đăng kư nhượng quyền. Những cái tên không hề xa lạ như California, New York, Washington, là một trong số đó [12]. Hiện tại hoạt động NQTM diễn ra phổ biến tại Châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản và đang có phần gia tăng ở các nước đang phát triển [4]. Ở Việt Nam, cà phê Trung Nguyên, Phở 24, bánh ngọt Kinh Đô, hăng thời trang Foci (công ty dệt may Nguyên Tâm), Công ty cổ phần kiến trúc xây dựng Nhà Vui, là những ví dụ về các doanh nghiệp thực hiện hoạt động NQTM [14]. Tính đến thời điểm năm 2004, Việt Nam có khoảng 70 thương hiệu áp dụng NQTM, với tốc độ tăng trưởng ước tính 15% - 20% / năm [42].
    Tại Mỹ, lúc đầu NQTM được coi là những thoả thuận giữa các nhà sản xuất, những tổ chức dịch vụ với những nhà kinh doanh độc lập khác liên quan đến việc phân phối sản phẩm – chính là h́nh thức nhượng quyền phân phối sản phẩm sau này. Trong h́nh thức này BNhQ chỉ được sử dụng nhăn hàng hoá của BNQ. Ví dụ cho trường hợp này là Coca-Cola, hăng này đă thực hiện bán Franchising lần đầu tiên cho nhà máy sản xuất vỏ chai là Georgia vào năm 1901. Phân phối theo h́nh thức này, Coca-Cola đă giảm được đáng kể chi phí vận tải, bởi thay v́ vận chuyển nguyên cả chai, giờ đây Coca-Cola chỉ việc vận chuyển nước ngọt trong các thùng lớn, khâu đóng chai sẽ được thực hiện ngay tại cơ sở sản xuất vỏ chai, dưới sự kiểm soát chặt chẽ của Coca-Cola. Việc này có thể đảm bảo Coca-Cola không phải tiết lộ bí quyết kinh doanh của ḿnh, bởi nhượng quyền theo h́nh thức này Coca-Cola vẫn sẽ là nhà sản xuất, sản phẩm sau đó được vận chuyển trong các thùng lớn đi các nơi, đến nơi nó sẽ được đóng vào các chai nhỏ.

    Sau một thời gian tồn tại, NQTM tại Mỹ phát triển thêm một h́nh thái mới đó là NQTM đối với phương thức kinh doanh. Ở h́nh thức này, BNQ kèm theo việc chia sẻ quyền kinh doanh nhăn hiệu, sẽ phải chia sẻ thêm cách thức kinh doanh thông qua việc thiết lập tài liệu hướng dẫn, đào tạo kỹ thuật, nhân viên, hỗ trợ việc chọn mặt bằng, Chính v́ việc chia sẻ quá nhiều điều cho BNhQ mà BNQ phải kiểm soát rất chặt chẽ hoạt động của BNhQ để bảo đảm được uy tín, sự tồn tại của cả hệ thống kinh doanh. H́nh thức nhượng quyền này hiện nay là phổ biến, có thể t́m thấy rất nhiều ví dụ như McDonald’s, KFC,
    Như vậy ở Mỹ, NQTM có thể diễn ra dưới hai h́nh thức: (i) NQTM trọn gói hay NQTM cả một h́nh thức kinh doanh và (ii) NQTM sản phẩm. C̣n ở Châu Âu, trong án lệ Propuptia, toà án tư pháp Châu Âu (ECJ) đă phân biệt ba h́nh thức NQTM, đó là NQTM dịch vụ, NQTM sản xuất và NQTM phân phối [33].
    1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động NQTM
    a. Khái niệm NQTM
    Franchise có nguồn gốc từ tiếng Pháp cổ là “Franc” có nghĩa là đặc quyền hay tự do [12]. Ngày nay cùng với sự phát triển nhanh chóng của NQTM th́ nhiều định nghĩa cũng được đưa ra. Nhưng do sự khác nhau về chế độ kinh tế, chính trị cũng như xă hội của mỗi một quốc gia mà mỗi định nghĩa được đưa ra lại có khía cạnh đặc trưng riêng.
    Theo thông lệ quốc tế, NQTM được coi là một hoạt động thương mại, trong đó BNQ (franchisor) sẽ chuyển mô h́nh kinh doanh, nhăn hiệu hàng hoá/dịch vụ, bí quyết kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo cho BNhQ (franchisee). BNhQ sau khi kư hợp đồng nhượng quyền được phép khai thác kinh doanh trên một không gian địa lư nhất định và phải trả một khoản phí nhượng quyền và tỷ lệ phần trăm doanh thu định kỳ cho BNQ trong một khoảng thời gian nhất định. Đây là một h́nh thức để BNQ khai thác được lợi ích tài chính từ chính bí quyết kinh doanh của ḿnh mà không phải đầu tư thêm vốn. Ngoài ra, h́nh thức này cũng tạo cơ hội cho các thương nhân không có đủ kinh

    nghiệm cần thiết để tiếp cận được với các phương thức kinh doanh mà đúng ra họ phải nỗ lực vượt bậc mới có được, và cũng tạo cơ hội cho họ được hưởng lợi từ chính tên thương mại, uy tín của BNQ.
    Theo quan điểm của pháp luật Hoa Kỳ và các nước công nghiệp phát triển th́ hoạt động franchising thực chất là hoạt động chuyển giao quyền kinh doanh (quyền thương mại) gắn liền với quyền SHTT, bao gồm cả quảng cáo, tiêu chuẩn hàng hoá, đào tạo người lao động, khuyến mại v.v
    Việt Nam là một nước tiếp cận với hoạt động NQTM được coi là muộn, nên trên cơ sở học hỏi kinh nghiệm của các nước kết hợp với t́nh h́nh thực tế của hoạt động này ở Việt Nam, lần đầu tiên Luật thương mại 2005 đă đưa ra định nghĩa về NQTM tại Điều 284 và có quy định cụ thể về NQTM tại Mục 8 Chương VI từ các điều 284 đến điều 291. Tuy nhiên, thực ra NQTM đă xuất hiện tại Việt Nam từ đầu thập niên 90 và thuật ngữ này lần đầu được đề cập đến trong hệ thống pháp luật Việt Nam qua khái niệm “cấp phép đặc quyền kinh doanh” tại Thông tư số 1254/1999 của Bộ KHCN&MT. Tại Nghị định số 11/2005/NĐ-CP quy định chi tiết về chuyển giao công nghệ (sửa đổi) quy định chi tiết thi hành Chương III Phần VI Bộ luật Dân sự 1995 chính thức thừa nhận hoạt động “cấp phép đặc quyền kinh doanh”- một dạng hoạt động NQTM, là một trong những hoạt động chuyển giao công nghệ. Theo Điều 4 Khoản 6 Nghị định số 11/2005, “cấp phép đặc quyền kinh doanh” là hoạt động theo đó: “ bên nhận sử dụng tên thương mại, nhăn hiệu hàng hoá và bí quyết của bên giao để tiến hành hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ thương mại”. C̣n theo Luật thương mại 2005, NQTM được quy định “NQTM là hoạt động thương mại, theo đó Bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu Bên nhận quyền tự ḿnh tiến hành việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ ” (Điều 284) theo cách thức và phương pháp kinh doanh mà BNQ quy định. Hoạt động thương mại này phải được làm thành văn bản và phải đăng kư với Bộ thương mại hoặc


    các Sở thương mại theo quy định tại Điều 18 Nghị định số 35/2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật thương mại về hoạt động NQTM.
    Thực chất NQTM chính là hoạt động thương mại của các thương nhân nhằm mở rộng quy mô kinh doanh của ḿnh thông qua việc chia sẻ quyền phân phối sản phẩm hoặc chia sẻ quyền sử dụng công thức kinh doanh trên một thương hiệu của ḿnh cho một hoặc nhiều thương nhân khác. Chính nhờ cách thức này mà Ray Kroc đă thiết lập nên một hệ thống cửa hàng thức ăn nhanh Mc Donald’s trên toàn thế giới như hiện nay, đem lại thành công mà nhiều công ty khác mong chờ, tuy không thể nói rằng lợi nhuận của tập đoàn này chủ yếu là do kinh doanh thức ăn nhanh. Có thể coi McDonald’s là trường hợp kinh điển trong lịch sử nhượng quyền kinh doanh của mọi thời đại.
    b. Đặc điểm của NQTM
    Dù hoạt động NQTM có phát triển như thế nào th́ về bản chất, pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều công nhận NQTM không phải là “việc kinh doanh” cụ thể nào đó mà là một phương thức kinh doanh [18]. Đó chính là phương thức hợp tác giữa ít nhất là hai bên chủ thể: chủ sở hữu các quyền SHTT (như nhăn hiệu, bí mật kinh doanh, tên thương mại, biển hiệu hay các biểu tượng quảng cáo, ) với một hoặc nhiều doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh khác trong việc cùng khai thác giá trị thương mại của các đối tượng NQTM của BNQ. Đổi lại, BNQ sẽ nhận được các khoản phí do BNhQ trả.
    Dựa vào bản chất đă phân tích, có thể thấy hoạt động NQTM có một số đặc điểm sau:
    - Về mặt chủ thể, hoạt động này bao gồm BNQ và BNhQ. Trong đó BNQ bắt buộc phải là thương nhân có một hệ thống và cơ sở kinh doanh đang có lợi thế cạnh tranh trên thị trường. BNhQ là một doanh nghiệp độc lập về mặt tài chính, pháp lư và đầu tư, đồng thời chấp nhận rủi ro đối với nguồn vốn bỏ ra khi thực hiện việc tham gia vào hệ thống nhượng quyền của BNQ. Điều này nghĩa là các bên của hợp đồng NQTM là các thương nhân có quyền kinh

    doanh độc lập. Sự độc lập này thể hiện ở chỗ: BNhQ khai thác hệ thống NQTM v́ lợi ích của chính ḿnh, và BNhQ được tự do thực hiện các hoạt động khác, ngoài hợp đồng NQTM. Đặc điểm độc lập này là đặc điểm quan trọng giúp phân biệt giữa quan hệ NQTM với quan hệ chi nhánh.
    - Về tính đồng bộ, thống nhất. NQTM là sự phát triển đồng bộ một thương hiệu tạo ra sự thống nhất một h́nh ảnh các cửa hàng, để khách hàng vào bất cứ cơ sở, cửa hàng nào trong hệ thống cũng đều cảm thấy thoải mái, hài ḷng như nhau. Hệ thống nhượng quyền như một guồng máy mà mỗi cửa hàng, cơ sở là một mắt xích, để tạo nên chính thể đó. Sự thay đổi của một mắt xích tất yếu làm ảnh hưởng tới cả hệ thống. Đây là điểm nhạy cảm của NQTM, bởi nó có thể giúp phát triển danh tiếng của hàng hoá, hệ thống nhượng quyền một cách nhanh chóng nhưng cũng có thế làm cho uy tín xây dựng trong một thời gian dài của sản phẩm/dịch vụ nhượng quyền đó sụp đổ.
    - Về mặt nội dung của khái niệm “quyền thương mại”. Nội dung của khái niệm này tuỳ thuộc vào từng loại h́nh NQTM và sự thoả thuận của các bên mà “rộng, hẹp” khác nhau. Đây là một khái niệm trừu tượng, có mối liên hệ đặc biệt đối với các đối tượng của SHTT. Theo cách hiểu NQTM là nhượng quyền phương thức kinh doanh th́ quyền thương mại không chỉ dừng ở việc sử dụng tên thương mại, kiểu dáng thiết kế của hàng hoá mà c̣n mở rộng không ngừng bao gồm nhiều quyền năng khác trong hoạt động kinh doanh [18]. Cũng như các quan hệ khác, NQTM càng phát triển mở rộng th́ khả năng chứa đựng nhiều mâu thuẫn, tranh chấp càng cao. Sở dĩ như vậy là do, bản thân “quyền thương mại” đă liên quan đến lợi ích thiết thân của một nhà kinh doanh. Việc nhượng lại quyền thiết thân này cho một chủ thể kinh doanh khác để cùng kinh doanh, cùng chia sẻ những lợi thế mà quyền kinh doanh đem lại, v́ thế, chắc chắn sẽ gây ra không ít tranh chấp.V́ đặc điểm này mà hoạt động NQTM phải được pháp luật điều chỉnh .
     
Đang tải...