Tài liệu Một số vấn đề pháp lí cơ bản của luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế

Thảo luận trong 'Luật Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    ĐỀ TÀI: Một số vấn đề pháp lí cơ bản của luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế

    LỜI NÓI ĐẦU
    1 Tính cấp thiết của đề tài
    Trước xu hướng chung của sự phát triển quốc tế là khu vực hóa, toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, Việt Nam c̣ng nh­các nước khác đang bước nhanh vào tiến tŕnh hội nhập. Quan hệ giữa các quốc gia diễn ra trong điều kiện hết sức đa dạng, khác biệt về bản sắc văn hóa cùng các điều kiện về chính trị, kinh tế, xă hội. H́nh thành và phát triển trong điều kiện quan hệ quốc tế đó, Điều ước quốc tế có chức năng duy tŕ và ổn định tương đối trật tự pháp lư quốc tế, giữ ǵn quan hệ b́nh đẳng giữa các quốc gia, bảo đảm hài ḥa lợi Ưch chung của cộng đồng và lợi Ưch quốc gia, đồng thời bảo đảm các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế được thực thi và tuân thủ.
    Nhận thức được rơ vai tṛ của điều ước quốc tế trong thời ḱ các quốc gia trên thế giới đă chuyển từ đối đầu sang đối thoại và hợp tác, chúng ta cũng nh́n nhận được tầm quan trọng của vấn đề kư kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế đối với thế giới nói chung và với Việt Nam nói riêng. Việt Nam – một quốc gia nhỏ, đang phát triển, tiếng nói chưa có sức nặng trên trường quốc tế th́ việc làm sao để khi kư kết, thực hiện điều ước quốc tế vừa phù hợp xu hướng quốc tế chung, vừa đảm bảo lợi Ưch quốc gia là rất quan trọng. Do đó, vấn đề kư kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đặt ra rất cấp thiết. Đây cũng là lƯ do v́ sao tôi chọn đề tài: “Một sè vấn đề pháp lí cơ bản của luật kư kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của ḿnh.
    2 Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn
    Bài khóa luận này tập trung làm sáng tỏ các vấn đề cơ bản về điều ước quốc tế của luật kư kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế 2005 trong tương quan với hệ thống pháp luật Việt Nam và Luật điều ước quốc tế (Công ước Viên 1969).
    Phân tích những qui định của pháp luật hiện hành và thực tiễn kí kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế tại Việt Nam. Đưa ra những nhận xét, đánh giá c̣ng nh­ mét số kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa việc kư kết, thực hiện điều ước quốc tế trong bối cảnh hội nhập trước mắt c̣ng nh­ trong tương lai.
    3 Phương pháp nghiên cứu
    Luận văn sử dụng các phương pháp của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng một số phương pháp cụ thể nh­: phân tích, tổng hợp, đối chiếu so sánh, kết hợp lư luận và thực tiễn.
    4 Nội dung của luận văn
    Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của luận văn bao gồm 3 chương:
    - Chương 1: Những vấn đề cơ bản về luật điều ước quốc tế và sơ lược quá tŕnh phát triển của các qui định về kư kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế.
    - Chương 2: Các qui định cơ bản của pháp luật Việt Nam về kư kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế.
    - Chương 3: Sù tương thích của luật kư kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế 2005 với Công ước Viên 1969 về luật điều ước quốc tế. Thực trạng kư kết, thực hiện và một vài kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật điều ước quốc tế ở Việt Nam.













    CHƯƠNG 1
    NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LUẬT ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ (ĐƯQT) VÀ
    SƠ LƯỢC QUÁ TR̀NH PHÁT TRIỂN CỦA CÁC QUY ĐỊNH V̉ KƯ KẾT, GIA NHẬP VÀ THỰC HIỆN ĐƯQT


    1.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LUẬT ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ
    Ngày 23/5/1969 Liên hợp quốc thông qua công ước Viên 1969 về luật ĐƯQT kư kết giữa các quốc gia (gọi tắt là công ước Viên 1969) có hiệu lực 27/1/1980. Tuy không phải là khung pháp lư duy nhất điều chỉnh quan hệ kư kết và thực hiện ĐƯQT phát sinh giữa các chủ thể luật quốc tế với nhau nhưng công ước này đă có một sự bao trùm lớn các vấn đề quan trọng trong lĩnh vực này. Công ước không chỉ là kết quả của quá tŕnh pháp điển hoá thành công các quy phạm của luật tập quán quốc tế về kư kết và thực hiện ĐƯQT mà c̣n xây dựng được khung pháp lư quốc tế cơ bản điều chỉnh hiệu quả quan hệ kư kết và thực hiện ĐƯQT phát sinh giữa các quốc gia - chủ thể cơ bản của luật quốc tế. Sự ra đời của công ước Viên 1969 cùng với sự ra đời của Công ước Viên 1986 về luật ĐƯQT giữa các quốc gia và tổ chức quốc tế hoặc giữa các tổ chức quốc tế với nhau (gọi tắt là Công ước Viên 1986) đă thúc đẩy việc sử dụng ĐƯQT làm công cụ pháp lư điều chỉnh mối quan hệ hợp tác giữa các quốc gia trên thế giới ngày một rộng răi. Hơn nữa, Công ước Viên 1969 là cơ sở pháp lư quan trọng để xác định nghĩa vụ pháp lư quốc tế của một quốc gia trước những thoả thuận và cam kết quốc tế đă được xác lập một cách hợp pháp. Đây là một trong những điều kiện chủ yếu về phương diện pháp lư để một quốc qia có thể hội nhập vào xu thế chung của thế giới hiện đại: xu thế toàn cầu hoá và liên kết khu vực. Quá tŕnh kư kết, thực hiện ĐƯQT luôn tạo ra những tác động nhiều mặt đến lợi Ưch thiết thực của mỗi quốc gia đặt trong mối tương quan chung của lợi Ưch quốc tế.
    1.1.1 Khái niệm điều ước quốc tế
    * Về định nghĩa ĐƯQT
    Trong lịch sử phát triển của khoa học luật quốc tế đă có rất nhiều quan điểm khác nhau về ĐƯQT, đă từng có những quan điểm cho rằng ĐƯQT là một hợp đồng như quan điểm của Andress Bello (ĐƯQT “là một hợp đồng giữa các dân tộc”) hay Laghi quan niệm ĐƯQT “thực sự là một hợp đồng theo cả nghĩa triết học và nghĩa pháp lư của ngôn từ”.
    Một số khác lại dừng lại ở việc nhận thức ĐƯQT là sù thoả thuận hay sự ưng thuận nhằm tạo lập, thay đổi hay chấm dứt các quan hệ pháp lư như Diena và Mc Nair.
    Trước những quan điểm khác nhau nh­ vậy th́ chúng ta phải hiểu nh­ thế nào là một ĐƯQT ? Điểm a khoản 1 Điều 2 Công ước Viên 1969 đă xác định:
    “ĐƯQT là một thoả thuận quốc tế được kư kết bằng văn bản giữa các quốc gia và được pháp luật quốc tế điều chỉnh, không phụ thuộc vào việc thoả thuận đó được ghi nhận trong văn kiện duy nhất hay trong hai hay nhiều văn kiện có quan hệ với nhau cũng như không phụ thuộc vào tên gọi cụ thể của các văn kiện đó.”
    Quy định này đă làm sáng tỏ bản chất của một ĐƯQT là “thoả thuận có yếu tố quốc tế”. Thoả thuận trong ĐƯQT là sự thống nhất về quan điểm của các bên về các vấn đề của điều ước tuy nhiên thoả thuận không phải lúc nào cũng là biểu hiện của việc đàm phán giữa các bên để đi đến sự nhất trí về các vấn đề của điều ước mà có thể được biểu hiện thông qua sự chấp thuận của quốc gia đối với những quy định của một ĐƯQT đă được xây dựng. Sự thoả thuận không chỉ v̉ nội dung, về h́nh thức và thủ tục kư kết điều ước mà c̣n được thể hiện cả trong việc xác định h́nh thức của điều ước. Do đó thoả thuận là nguyên tắc chủ đạo xuyên suốt từ quá tŕnh xây dựng đến khi thực hiện điều ước.
    Sự thoả thuận trong điều ước phải trên cơ sở b́nh đẳng cùng có lợi và tôn trọng các nguyên tắc khác của luật quốc tế. Thực tế, một ĐƯQT không được kư kết trên cơ sở nguyên tắc b́nh đẳng th́ không thể nói là đă có sự thoả thuận trong việc kư kết và như vậy ĐƯQT đă kư phải được xem là vô hiệu.
    Điều ước phải là sự thoả thuận do luật quốc tế điều chỉnh. Đây chính là căn cứ phân biệt ĐƯQT với hợp đồng giữa các quốc gia. Ngoài ra thoả thuận được thiết lập giữa các bên là nhằm mục đích thiết lập mới các quan hệ giữa họ với nhau hoặc thay đổi các quan hệ đă được thiết lập hoặc chấm dứt các quan hệ này. Chúng ta cũng cần phân biệt ĐƯQT với cam kết quốc tế. Sự phân biệt chủ yếu này là ở bản chất của chúng. ĐƯQT là kết quả của sự thỏa thuận về ư chí của các chủ thể luật quốc tế. Như vậy quan hệ điều ước phải có sự tham gia Ưt nhất từ hai chủ thể luật quốc tế trở lên và tính pháp lư của các thoả thuận này được thể hiện ở kết quả là các thoả thuận đă thành công ghi nhận dưới dạng các quy phạm pháp luật quốc tế, trực tiếp điều chỉnh quyền và nghĩa vụ pháp lư của các chủ thể tham gia kết ước. C̣n cam kết quốc tế vốn là sự tự ràng buộc của chủ thể luật quốc tế vào nghĩa vụ pháp lư quốc tế nhất định. Sự ràng buộc đó được thực hiện thông qua hành vi pháp lư đơn phương hoặc thoả thuận của chủ thể luật quốc tế. Trong một ĐƯQT , các nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ điều ước được các chủ thể kết ước cam kết thực hiện trên cơ sở của nguyên tắc pacta sunt vervanda và các nguyên tắc khác mà Công ước Viên 1969 đă ghi nhận.
    Chủ thể ĐƯQT là các chủ thể của luật quốc tế, trong đó các quốc gia chiếm vị trƯ chủ yếu. Mặc dù trong Điều 6 Công ước Viên 1969 chỉ đề cập đến tư cách kư kết ĐƯQT của các quốc gia nhưng Điều 3 Công ước lại qui định rằng:
    “Việc Công ước này không áp dụng đối với các hiệp định quốc tế được kư kết giữa các quốc gia và các chủ thể khác của pháp luật quốc tế hoặc giữa các chủ thể khác của pháp luật quốc tế với nhau, cũng như không áp dụng đối với những hiệp định quốc tế không thành văn, sẽ không phương hại ǵ đến: giá trị pháp lư của các hiệp định đó ” (Điều 3)
    Điều này chứng tỏ rằng bên cạnh quốc gia, các chủ thể khác của luật quốc tế cũng có tư cách để kư kết ĐƯQT. Công ước Viên 1986 đă thừa nhận năng lực kư kết điều ước của các tổ chức quốc tế. Ngoài ra, một số phong trào giải phóng dân téc cũng được chấp nhận là thành viên của mét số Hiệp định quốc tế (dù ở mức độ hạn chế).
    Khách thể của ĐƯQT là các quan hệ giữa các chủ thể luật quốc tế về các vấn đề tài sản hoặc phi tài sản, hành động hoặc không hành động. Thực tế, bất cứ khách thể nào của luật quốc tế cũng có thể là khách thể của ĐƯQT, ví dụ: Công ước về luật biển quốc tế, Hiệp ước về hoạch định biên giới, Hiệp định tương trợ tư pháp Theo quan điểm chung hiện nay, những vấn đề liên quan đến công việc nội bộ tuyệt đối của quốc gia không thể là khách thể của ĐƯQT như vấn đề về đảng nào sẽ nắm vai tṛ lănh đạo trong hệ thống chính trị quốc gia
    Mục đích của ĐƯQT là cái mà các chủ thể của luật quốc tế muốn thực hiện hoặc đạt được qua việc kư kết ĐƯQT. Hay nói cách khác ĐƯQT là công cụ để các chủ thể luật quốc tế thực hiện mục đích mà họ mong muốn.
    Vậy có thể đi đến kết luận: ĐƯQT là sự thoả thuận rơ ràng về mặt ư chí của các chủ thể luật quốc tế nhằm Ên định thay đổi hoặc huỷ bỏ các các quyền và nghĩa vụ pháp lư của các chủ thể trong bất cứ­ lĩnh vực nào của đời sống quốc tế.
    * Về cơ cấu ĐƯQT
    Về mặt cơ cấu, ĐƯQT bao gồm 3 phần: lời nói đầu, phần nội dung chính và phần cuối cùng.
    Lời nói đầu là phần mở đầu của ĐƯQT, phần này không được chia thành chương mục, điều khoản, không xác định quyền và nghĩa vụ các bên. Lời nói đầu thường bao gồm những vấn đề như: ghi nhận lƯ do, mục đích, nguyên tắc kư kết ĐƯQT, tên gọi các bên, bối cảnh dẫn đến kư kết
    Về nguyên tắc, nh́n chung lời nói đầu có giá trị pháp lư như phần nội dung chính, nó đóng vai tṛ quan trọng trong việc giải thích các quy định của điều ước trong phần chính.
    Phần nội dung chính là phần quan trọng nhất của điều ước được chia thành các chương, mục, điều, khoản điều chỉnh các quan hệ mà v́ chúng điều ước được thiết lập giữa các bên. Phần này ghi nhận cụ thể quyền và nghĩa vụ của các bên.
    Phần cuối cùng, cũng như phần nội dung chính, phần này được chia thành các điều khoản nhất định thường bao gồm các nội dung như: thời gian áp dụng, thời điểm bắt đầu có hiệu lực, khoảng không gian có hiệu lực, vấn đề bảo lưu, giải thích điều ước, giải quyết tranh chấp có liên quan
    Mặc dù ĐƯQT thường bố trí theo các chương, mục, điều khoản cụ thể, nhưng đây cũng không phải là yêu cầu bắt buộc về mặt h́nh thức thể hiện đối với mọi ĐƯQT. Chẳng hạn một số điều ước về thành lập tổ chức quốc tế như tuyên bố Băng Cốc năm 1967 về thành lập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) là một trong số những ĐƯQT không có kết cấu như thường gặp.
    * Về phân loại và ngôn ngữ điều ước quốc tế
     
Đang tải...