Luận Văn Một số vấn đề lý luận cơ bản về kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng thương mại.

Thảo luận trong 'Ngân Hàng' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    LỜI MỞ ĐẦU


    Cùng với xu hướng phát triển kinh tế thị trường trên thế giới bất kỳ một nước nào đều phải có quan hệ mua bán , giao dịch , cho vay , thu nợ , đầu tư vốn với các nước khác . Thực hiện các mối quan hệ trên đã dẫn đến hình thành các quan hệ về tiền tệ , tài chính quốc tế .
    Ngày nay các quan hệ tài chính , tiền tệ quốc tế đã trở thành một yếu tố không thể thiếu được trong hoạt động của nền kinh tế & ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường . Kết quả thực hiện các mối quan hệ trên hình thành các khoản thu chi tiền tệ quốc tế giữa các nước với nhau . Để thực hiện tốt các khoản thu chi tiền tệ quốc tế cần thiết phải thông qua những tổ chức trung gian đó là các ngân hàng thương mại . Quá trình thực hiện các khoản thu chi tiền tệ quốc tế giữa các nước với nhau nhất thiết phải sử dụng tiền tệ nước này hay nước khác , nói chung là ngoại tệ . Chính vì điều này đã làm cho nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng trở nên quan trọng & và không thể thiếu trong kinh doanh của ngân hàng
    Bên cạnh đó kinh doanh mua bán ngoại tệ là một nghiệp vụ đem lại lợi nhuận cho NH , đồng thời đadạng hóa được ngoại hình kinh doanh , nâng cao chất liệu trong việc cung cấp dịch vụ đối với khách hàng .
    Chính vì tầm quan trọng của loại hình kinh doanh này & sau quá trình thực tập , tìm hiểu tham khảo nên trong chuyên đề này em xin được phép trinhf bày & phân tích về tình hình kinh doanh ngoại tệ trong một ngân hàng .
    Được sự cho phép của Ngân hàng No&PTNT thành phố Đà Nẵng cộng với sự giúp đỡ của các anh chị trong phòng kinh tế đối ngoại . Bên cạnh đó dưới sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo tiến sĩ Nguyễn Văn Lê chuyên đề đã được hoàn thành với 3 phần :
    Phần I : Tổng Quan Về Hoạt Động Kinh Doanh Ngoại Tệ Của NHTM
    Phần II : Phân Tích Tình Hình Mua Bán Ngoại Tệ NHNo&PTNT Thành Phố ĐN Giai Đoạn 2002-2003 .
    Phần III Tổng Hợp Đánh Giá Quá Trình Kinh Doanh & Những Ý Kiến Đề Xuất .
    Do năng lực bản thân còn hạn chế nên chuyên đề này vẫn còn nhiều sai sót . Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp , chỉ dẫn để chuyên đề được hoàn thiện hơn & làm kinh nghiệm cho bản thân .
    Em xin chân thành cảm ơn !
    PHẦN I
    MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ
    KINH DOANH NGOẠI TỆ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.


    I . NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ NGHIỆP VỤ
    KINH DOANH NGOẠI TỆ.
    1 . Ngân Hàng Thương Mại :
    1.1 Khái niệm :
    Theo luật các tổ chức tín dụng ban hành ngày 12.12.1997 thì Ngân Hàng Thương Mại là một tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động Ngân Hàng & các hoạt động kinh doanh khác có liên quan .
    Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân Hàng với nội dung chủ yếu , thường xuyên là nhận tiền gởi , sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung cấp các dịch vụ thanh toán
    1.2 Đặc điểm về hoạt động kinh doanh
    + Vốn bằng tiền vừa là phương tiện kinh doanh , vừa là mục đích kinh doanh và đồng thời cũng là đối tượng kinh doanh
    + Sử dụng vốn của người khác để kinh doanh là chủ yếu và hoạt động kinh doanh trên nhiều lĩnh vực và ngành nghề khác nhau
    + Một trong những sản phẩm chủ yếu của ngân hàng là tín dụng
    + Giữa các sản phẩm của ngân hàng có mối liên hệ chặt chẽ mang tính liên đới , hoặc bổ sung hoặc thay thế
    + Hoạt động thống nhất trong hệ thống , giữa các ngân hàng có quan hệ chặt chẽ trong kinh doanh , vừa phải cạnh tranh , vừa phải liên kết .
    + v v
    1.3 Các nghiệp vụ chủ yếu của Ngân Hàng Thương Mại (NHTM)
    - Nghiệp vụ huy động vốn :
    + Vốn huy động là vốn của các chủ sỡ hữu khác nhau trong xã hội được Ngân Hàng huy động với trách nhiệm hoàn trả cả gốc lẫn lãi theo đúng thỏa thuận . Vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn trong tổng ngưồn vốn của Ngân Hàng
    Vốn huy động của các NHTM được phân làm 3 nhóm như sau :
    + Vốn huy động từ tiền gởi : đây là hình thức huy động thường xuyên của ngân hàng . Căn cứ theo đối tượng tiền gởi người ta chia thành :
    Tiền gởi của các tổ chức kinh tế
    Tiền gởi của các tổ chức tín dụng
    Tiền gởi của kho bạc nhà nước
    Tiền gởi của cá nhân
    Vốn huy động từ phát hành giấy tờ có giá : Đây là một dạng huy động không thường xuyên , NH chỉ huy động khi thiếu vốn , bao gồm : chứng chỉ tiền gởi ngắn hạn (kỳ phiếu) và chứng chỉ tiền gửi dài hạn (trái phiếu NH)
    Vốn huy động từ đi vay
    Bao gồm : + Vay NH nhà nước
    + Vay các tổ chức tín dụng
    - Nghiệp vụ cho vay :
    Đây là nghiệp vụ đặc trưng nhất của NHTM , sử dụng phần lớn nguồn vốn của NH , tạo ra thu nhập chủ yếu cho NH và đồng thời cũng hàm chứa khả năng rủi ro lớn . Căn cứ vào thời hạn cho vay thì nghiệp vụ cho vay của NH có thể chia thành :
    . Cho vay ngắn hạn : Thời hạn dưới 1 năm
    . Cho vay trung hạn : Thời hạn từ 1 đến 5 năm
    . Cho vay dài hạn : Thời hạn trên 5 năm
    - Các nghiệp vụ khác
    + Nghiệp vụ thanh toán trung gian : Đây là nghiệp vụ chủ yếu thường xuyên nhất của một NHTM
    + Nghiệp vụ bảo lãnh (Bảo lãnh tín dụng , mở L/C) nghiệp vụ này không sử dụng nhiều vốn của NH nhưng đem lại thu nhập rất lớn cho NH .
    + Nghiệp vụ mua bán ngoại tệ : Là một trong những nghiệp vụ kinh doanh đem lại cho NH nhiều lợi nhuận . Mục đích của hoạt động mua bán ngoại tệ là để đáp ứng nhu cầu về ngoại tệ của khách hàng một cách nhanh chóng và thuận lợi nhất , nâng cao chất lượng trong việc cung cấp dịch vụ đối với khách hàng , thu lợi nhuận từ chênh lệch tỷ giá mua bán .
    2 . Các Nghiệp Vụ Mua Bán Ngoại Tệ :
    2.1 Nghiệp vụ mua bán giao ngay (spot)
    ã Nghiệp vụ mua bán giao ngay là nghiệp vụ mua bán ngoại tệ mà việc giao ngoại tệ được thực hiện ngay hay chậm nhất là trong vòng hai ngày làm việc kể từ khi hợp đồng mua bán ngoại tệ được ký kết trên cở sở tỷ giá giao ngay .
    Trong nghiệp vụ , thời gian tối đa để hoàn tất nghiệp vụ là 2 ngày làm việc . Sở dĩ có 2 ngày làm việc là do thông lệ quốc tế trong mua bán ngoại hối thì 2 ngày làm việc là khoản thời gian cần thiết để thực hiện các bút toán chuyển tiền giữa các ngân hàng
    ã Để tiến hành nghiệp vụ hối đoái giao ngay , các nhà kinh doanh hối đoái phải xác định tỷ giá chéo phù hợp với yêu cầu giao dịch , sau đó trên cơ sở tỷ giá này kết hợp với lượng ngoại tệ giao dịch để xác định số đối khoản cần phải trao đổi với nhau giữa 2 bên mua bán vào ngày hiệu lực thông thường
    2.2 Nghiệp vụ chuyển hối :
    Arbitrage là một kỹ thuật nghiệp vụ rút ra từ nghiệp vụ hối đoái giao ngay . Kỹ thuật này nhằm giao dịch trực tiếp ngoại tệ với ngoại tệ mà không thông qua b tệ . Để tiến hành nghiệp vụ này người kinh doanh cần phải xác định rõ :
    + Những tỷ giá chéo cần được xác định ?
    + Trị giá khoản tiền cần được áp dụng là bao nhiêu ?
    + Nếu còn dư thì giải quyết theo tỷ gia nào ?
    + Có lợi hơn so với việc xác định tỷ giá thông qua bản ngoại tệ không ?
    Thực chất của kỹ thuật Arbitrage là tận dụng sự chênh lệch giữa tỷ giá của các ngoại tệ là khác nhau để tiến hành giao dịch trực tiếp ngoại tệ với nhau . Người ta chỉ giao dịch qua bản tệ đối với bộ phận ngoại tệ dư (hoặc thiếu) mà thôi .
    Có 2 loại Arbitrage
    + Chuyển hối thông thường : là nghiệp vụ mua bán ngoại tệ để chuyển từ đồng tiền này sang đồng tiền khác .
    + Chuyển hối đầu cơ hay còn gọi là nghiệp vụ kinh doanh chênh lệch tỷ giá . Thực chất là lợi dụng sự chênh lệch giá của đồng tiền trên những thị trường khác nhau để kiếm lời.
    2.3 Nghiệp vụ mua bán có kỳ hạn .(Forward)
    * Nghiệp vụ hối đoái có kỳ hạn là nghiệp vụ biểu hiện bằng một hợp đồng giữa một bên là ngân hàng và một đối tác khác nhằm đổi một loại tiền này lấy một loại tiền khác tại một thời điểm khác trong tương lai nhưng các dữ kiện như tỷ giá , loại tiền , số lượng , ngày hiệu lực đều đã được hai bên xác định cụ thể vào lúc k hợp đồng
    Hợp đồng kỳ hạn có ưu điểm là đáp ứng được của cả hai bên về quy mô giao dịch lẫn ngày tiến hành hoán đổi . Nhưng nhược điểm của loại hợp đồng này là không được hủy bỏ đơn phương . Do vậy đây không phải là hợp đồng mang tính linh hoạt và dễ bán
    * Tỷ giá trên thị trường có kỳ hạn được xác định căn cứ trên cung và cầu của ngoại tệ trái với tỷ giá hối đoái trao ngay , không có dự định giá cho giao dịch có kỳ hạn . Tỷ giá có kỳ hạn được xác định ngay khi thỏa thuận , dựa vào tỷ giá giao ngay về các đồng tiền đó trừ đi hay cộng thêm vào phần chênh lệch giữa lãi đi vay phải trả và lãi cho vay sẽ nhận được trên số ngày cụ thể của kỳ hạn .
    Nếu gọi ký hiệu :
    x* : Tiền gởi có kỳ hạn
    x : Tỷ giá giao ngay
    m : Tỷ giá mua
    b : Tỷ giá bán
    n : Số ngày
    t : Lãi suất (% năm)
    1 : Đồng tiền yết giá
    2 : Đồng tiền định giá
    v : Vay
    cv : Cho vay
    t1v : Lãi suất đi vay của đồng tiền yết giá
    t2cv : Lãi suất cho vay của đồng tiền định giá
    Tính xm* (Tiền gởi mua có kỳ hạn) A/B
    Giả sử 1 công ty có 1 đơn vị tiền tệ A sau n ngày nữa
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...