Tiểu Luận Một số phương pháp dạy phân môn Chính tả ở lớp 3

Thảo luận trong 'Khảo Cổ Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    MỤC LỤC
    STT NỘI DUNG TRANG
    1 I: Thực trạng 1
    2 II: Giải pháp và khắc phục 2
    3 III: Bài học kinh nghiệm 7
    4 VI: Kết luận 8
    5 Phần nhận xét đánh giá của hội đồng khoa học cấp Trường 10
    6 Phần nhận xét đánh giá của hội đồng khoa học Phòng GD & ĐT Huyện Dầu Tiếng. 11
    7 Phần nhận xét đánh giá của hội đồng khoa học Sở GD & ĐT Tỉnh Bình Dương. 12


    p

    I- Thực trạng.
    Thông qua việc rèn luyện thực hành để học sinh hình thành dần kỹ năng, kỹ xảo và thói quen viết đúng Chính tả.
    Tuy nhiên, yêu cầu cần thiết và tính chất quan trọng của việc viết đúng Chính tả như thế, nhưng thực tế của việc dạy và học Chính tả ở trong trường Tiểu học hiện nay vẫn còn tồn tại một số lỗi nhất định. Những tồn tại phổ biến hiện nay thường biểu hiện qua mấy điểm sau:
    1- Về giáo viên.
    Nhìn chung, giáo viên chưa có nhận thức đúng đắn về vị trí nhiệm vụ của môn Chính tả trong trường Tiểu học. Thường ít quan tâm đến việc viết đúng Chính tả của học sinh, chưa xác định được yêu cầu, kiến thức cần đạt được về Chính tả ở khối lớp mình phụ trách. Từ những quan niệm, nhận thức lệch lạc đó nên trong giảng dạy phân môn Chính tả, giáo viên ít dành thời gian và ít nghiên cứu để dạy tốt môn Chính tả: Cụ thể như không chú ý để thống kê những lỗi phổ biến ở lớp mình phụ trách, của địa phương học sinh đang sinh sống, chưa vận dụng sáng tạo những từ, những bài dạy ngoài sách học sinh, để bài dạy thêm phong phú đa dạng. Tần số Chính tả xuất hiện nhiều và phù hợp với tình hình mắc lỗi Chính tả của học sinh lớp mình phụ trách và địa phương học sinh đang sinh sống. Về nói, hầu hết các giáo viên chỉ phát âm đúng trong giờ dạy tập đọc và lúc đọc Chính tả. Như vậy nghĩa là ở các môn học khác giáo viên luôn luôn phát âm theo kiểu bình thường của người địa phương. Ta vẫn biết rằng việc phát âm không đúng chuẩn, không phải lúc nào cũng ảnh hưởng đến Chính tả.
    Ví dụ: Phát âm là “ Mái cài” mà thực chất là “Máy cày” mới đúng. Chính vì vậy, nếu ta không hiểu nghĩa của từ thì khó mà viết đúng Chính tả được.
    Về viết, biểu hiện chủ yếu trong việc chấm sửa bài của giáo viên không mấy cẩn thận, không quan tâm đến lỗi Chính tả cho học sinh ở các môn khác.
    2- Về học sinh.
    Các em chỉ chú ý viết đúng Chính tả trong giờ học Chính tả chủ yếu là nghe giáo viên phát âm, chức không cần nghe hiểu nghĩa từ để viết đúng Chính tả. Chính vì thế, ở các môn học khác kể cả môn tập làm văn, học sinh viết sai Chính tả rất nhiều. Do đó bài tập làm văn các em viết có ý nhưng lại sai quá nhiều lỗi Chính tả, nên mất hết ý nghĩa của bài văn và mất hay.
    Lỗi này do giáo viên không quan tâm sửa lỗi và nhắc nhở thường xuyên việc hiểu nghĩa từ để viết đúng Chính tả trong các môn học khác. Cho nên hiện nay học sinh chưa có được ý thức và thói quen viết đúng Chính tả trong mọi môn học. Vì thế, chúng ta cũng không lạ gì khi một học sinh điểm cao trong giờ Chính tả nhưng lại sai rất nhiều lỗi Chính tả trong môn học khác.


    II- Giải pháp khắc phục.
    Người giáo viên dạy trên lớp phải bổ sung, điều chỉnh mục đích yêu cầu môn Chính tả sao cho phù hợp với thực tế lớp mình đang phụ trách và nên nhắc nhở phân tích các từ nghữ mà học sinh thường viết sai và thường gặp trong các môn học khác để học sinh hiểu nghĩa và luôn viết đúng Chính tả.
    Trong môn Toán có bài tập hỏi một bàn tay có 5 ngón, hai bàn tay có bao nhiêu ngón? Học sinh không chú ý viết chữ tay ra chữ “tai” thì giáo viên phải nhắc ngay và phân tích rằng:
    Bàn tay, cánh tay luôn viết “y” (dài) nói chung cái tay để cầm nắm . là luôn viết “y” với đúng, còn cái tai để nghe, nói chung chữ tai có nghĩa là lỗ tai, và có nghĩa không tốt là viết chữ tai “i” (ngắn) mới đúng như: tai hại, tai nạn, tai ương . có nhắc nhở và giải thích như thế khi gặp học sinh viết sai Chính tả ở bất cứ môn nào thì học sinh mới có được thói quen viết đúng Chính tả.
    Nếu giáo viên chỉ chú ý sửa lỗi Chính tả cho học sinh khi viết Chính tả hay làm bài tập làm văn thôi thì học sinh khó có thói quen viết đúng Chính tả.
    Ở phần lên lớp, trường hợp hướng dẫn học sinh viết đúng tiếng, chữ khó, giáo viên cần chú ý đến nghĩa của từ và có sự so sánh phân tích kỹ để học sinh hiểu được nghĩa của từ đã học thì học sinh mới viết đúng chữ, từ ấy ở mọi lúc, mọi nơi.
    Ví dụ: Trong bài viết Chính tả có từ “chiều dài” thì giáo viên phải phân tích cho học sinh hiểu nghĩa chữ dài có nghĩa là dài - ngắn là luôn viết “i” (ngắn), có như vậy khi học sinh gặp chữ dài có nghĩa là dài - ngắn như cái thước kẻ dài 25cm thì học sinh biết ngay là phải viết chữ dài “i” (ngắn) mới đúng.
    - Bằng phương pháp hướng dẫn viết chữ, từ khó vừa nên, học sinh sẽ có ý thức là luôn phải hiểu nghĩa từ để viết đúng Chính tả ở bất cứ mọi lúc, mọi nơi.
    Việc chấm bài cho học sinh sau khi viết Chính tả, thông thường giáo viên thu tất cả vở học sinh để tự mình chấm như vậy giáo viên đã bỏ qua bước cho học sinh tự sửa lỗi trên vở của mình hoặc của bạn. Bằng cách này giáo viên chỉ có một điểm lợi là giảm bớt thời gian trên tiết dạy. Nhưng mặt khác là học sinh sẽ không tự phát hiện ra những lỗi viết sai dưới sự hướng dẫn sửa chữa của giáo viên. Việc tự mình sửa chữa những lỗi Chính tả mình hoặc bạn đã viết sai sẽ giúp học sinh khắc sâu và nhớ lâu hơn những lỗi Chính tả mà mình đã mắc phải.
    Phần hướng dẫn học sinh luyện tập các bài tập trong sách học sinh.
    Thông thường, các bài Chính tả giáo viên ở bậc Tiểu học thường sử dụng chủ yếu hình thức luyện tập ở bảng lớp kết hợp với bảng con. Ví dụ: Đối với loại bài tập điền từ vào chỗ trống, giáo viên thường tiến hành như sau:
    - Giáo viên chép đề bài lên bảng lớp.
    - Hướng dẫn cho học sinh những yêu cầu của bài tập.
    - Cho học sinh điều vào bảng con, trong lúc đó một học sinh lên bảng điền từ.
    - Xong giáo viên nhận xét sửa chữa và chuyển sang từ khác, bài khác, cứ lần lượt như thế cho đến hết bài tập.
    - Sau cùng giáo viên nêu thêm yêu cầu cho học sinh về nhà mở sách giáo khoa làm các bài tập đã hướng dẫn vào vở. Với cách làm luyện tập này, bộc lộ những hạn chế sau:
    Do bám sát yêu cầu, nội dung bài dạy và nội dung luyện tập trong sách học sinh. Nên trong phần luyện tập có những bài không phù hợp với học sinh trong lớp.
    - Số lượng bài tập trong sách học sinh còn ít (thông thường ở lớp 3 bài Chính tả chỉ có 1 đến 2 bài tập) có những bài tập yêu cầu còn quá thấp, chưa kích thích được sự suy nghĩ của học sinh. Chưa có bài tập nâng cao dành cho học sinh khá giỏi. Hình thức luyện tập bảng lớp, bảng con thường xuyên không gây được hứng thú cho học sinh và không lưu giữ được lâu bền. Việc cho học sinh về nhà xem sách giáo khoa làm lại bài tập để giải trong lớp có những bài có điểm không hợp lý.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...