Tài liệu Một số phương pháp chẩn đoán, xét nghiệm, phân loại vi khuẩn lao

Thảo luận trong 'Hóa Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    ĐỀ TÀI: Một số phương pháp chẩn đoán, xét nghiệm, phân loại vi khuẩn lao

    ĐẶT VẤN ĐỀ
    Bệnh lao là một căn bệnh mà sự tồn tại của nó đă gắn liền với sự phát triển của xă hội loài người từ ngàn năm nay. Trên thế giới chưa có một quốc gia nào, một dân tộc nào mà không có người bị mắc bệnh lao và chết do lao. Việc t́m ra các thuốc hóa học chống lao giúp cho việc chữa trị lao trở nên đơn giản và hiệu quả hơn, đồng thời trong giới y học cũng xuất hiện tư tưởng chủ quan nờn đó làm lăng quên đi căn bệnh nguy hiểm này. Ngày nay, bệnh lao trở lại cùng với đại dịch HIV/AIDS, nó trở thành một trong những căn nguyên gây bệnh và gây tử vong lớn nhất ở người, đặc biệt ở những nước đang phát triển [2].
    Theo TCYTTG, hiện nay trên thế giới có khoảng 2,2 tỉ người bị nhiễm lao, chiếm 1/3 dân số thế giới, ước tính trong năm 2003 cú thờm khoảng 9 triệu người mắc lao mới và khoảng 2 triệu người chết do lao. Trong đó có khoảng 75% bệnh nhân lao đều đang ở lứa tuổi lao động.
    Việt Nam đứng thứ 13 trong 22 nước có số bệnh nhân lao trên toàn cầu. Trong khu vực Tơy-Thỏi Bỡnh Dương, Việt Nam đứng thứ 3 sau Trung Quốc và Philippin về số lượng bệnh lao lưu hành cũng như bệnh nhân lao mới xuất hiện hàng năm [2]. Theo chương tŕnh Chống lao Quốc gia mỗi ngày nước ta cú thờm khoảng 400 người mắc bệnh, tỷ lệ tử vong do lao là 26/100.000 dân. Chỉ số nguy cơ nhiễm lao ước tính chung cả nước là 1,7%, trong đó miền nam là 2,2%. Tổng số nhiễm lao ước tính khoảng 44% dân số[2].
    Những nguyên nhân gắn liền với diễn biến xấu của bệnh lao trên thế giới là sự kết hợp các yếu tố như bùng nổ dân số, tăng cường di cư, sự lan rộng của virut HIV kéo theo bùng nổ dịch tễ hội chứng thiểu năng miễn dịch AIDS và sự lan truyền của chủng lao kháng thuốc [2].
    Trước t́nh h́nh đó, việc nghiên cứu sâu về bệnh lao cũng như tác nhân gây bệnh lao, đặc biệt là ở mức độ phân tử của chủng vi khuẩn sẽ giúp t́m hiểu được các vấn đề quan trọng như nguồn lây, t́nh trạng lan truyền, phân bố các type phân tử của vi khuẩn lao[25]. Với mục đích trên, luận văn này đề cập đến một số tớnh chất sinh học phơn tử của chủng M.tuberculosis phơn lập được từ bệnh nhơn lao tỉnh Hưng yên được phơn tích bằng kỹ thuật spoligotyping.

    CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

    1.1 TỔNG QUAN VỀ T̀NH H̀NH BỆNH LAO
    1.1.1 T́nh h́nh bệnh lao trên thế giới
    Bệnh lao gắn liền với sự phát triển xă hội loài người từ hàng ngàn năm nay, trên thế giới chưa bao giờ và không có một quốc gia nào, một khu vực nào, một dân tộc nào không có người mắc bệnh lao và chết do lao. Ngày nay, bệnh lao đang xuất hiện trở lại và cùng với đại dịch HIV/AIDS trở thành một trong những căn nguyên gây mắc bệnh và tử vong chủ yếu, đặc biệt tại các nước đang phát triển.
    Năm 1993, Tổ chức Y tế thế giới (TCYTTG) đă tuyên bố t́nh trạng khẩn cấp toàn cầu của bệnh lao và mối hiểm hoạ của nó trong tương lai là bệnh lao kháng thuốc.
    Hiện nay, trên thế giới có khoảng 2,2 tỷ người đă nhiễm lao (chiếm 1/3 dân số thế giới). Khoảng 95% số bệnh nhân lao và 98% số người chết do lao ở các nước có thu nhập vừa và thấp, 75% số bệnh nhân lao cả nam và nữ ở độ tuổi lao động. Trong đó, có khoảng 80% số bệnh nhân lao toàn cầu thuộc 22 nước có gánh nặng bệnh lao cao [2].
    Hiện nay, tỷ lệ điều trị thành công trên toàn cầu đạt 82%, nhưng tỷ lệ phát hiện chỉ đạt 37% số bệnh nhân ước tính. Như vậy, c̣n rất nhiều bệnh nhân lao không được chữa trị đang tiếp tục lây bệnh cho cộng đồng, và theo ­ước tính của TCYTTG, mỗi năm cú thờm 1% dân số thế giới bị nhiễm lao (65 triệu người). Trong đó hơn 33% số bệnh nhân lao toàn cầu tại khu vực Đụng-Nam Châu Á.

    Bảng 1. Ước tính tỷ lệ mắc và tử vong do lao ở các khu vực (TCYTTG, 2004) [2]
    [TABLE=width: 629, align: center]
    [TR]
    [TD]Khu vực[/TD]
    [TD=colspan: 2]Số bệnh nhân lao (ngh́n)[/TD]
    [TD=colspan: 2]Tỷ lệ/100 000[/TD]
    [TD=colspan: 2]Số tử vong do lao
    (bao gồm cả nhiễm HIV)[/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Các thể[/TD]
    [TD]AFB (+)[/TD]
    [TD]Các thể[/TD]
    [TD]AFB (+)[/TD]
    [TD]# (ngh́n)[/TD]
    [TD]/100.000[/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Châu Phi
    (26%)[/TD]
    [TD]2.354
    [/TD]
    [TD]1.000[/TD]
    [TD]350[/TD]
    [TD]149[/TD]
    [TD]556[/TD]
    [TD]83[/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Châu Mỹ
    (4%)[/TD]
    [TD]370
    [/TD]
    [TD]165[/TD]
    [TD]43[/TD]
    [TD]19[/TD]
    [TD]53[/TD]
    [TD]6[/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Trung Đông
    (7%)[/TD]
    [TD]622
    [/TD]
    [TD]279[/TD]
    [TD]124[/TD]
    [TD]55[/TD]
    [TD]143[/TD]
    [TD]28[/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Châu Âu
    (5%)[/TD]
    [TD]472
    [/TD]
    [TD]211[/TD]
    [TD]54[/TD]
    [TD]24[/TD]
    [TD]73[/TD]
    [TD]8[/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Đông nam Châu Á (33%)[/TD]
    [TD]2.890
    [/TD]
    [TD]1.294[/TD]
    [TD]182[/TD]
    [TD]81[/TD]
    [TD]625[/TD]
    [TD]39[/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Tây Thái B́nh Dương (24%)[/TD]
    [TD]2.090
    [/TD]
    [TD]939[/TD]
    [TD]122[/TD]
    [TD]55[/TD]
    [TD]373[/TD]
    [TD]22[/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Toàn cầu
    (100%)[/TD]
    [TD]8.797
    [/TD]
    [TD]3.887[/TD]
    [TD]141[/TD]
    [TD]63[/TD]
    [TD]1.823[/TD]
    [TD]29[/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]


    Mức độ nặng nề của bệnh lao đă ảnh hưởng tới thu nhập quốc dân và chỉ số phát triển con người của các quốc gia. Các nghiên cứu về kinh tế y tế cho thấy mỗi bệnh nhân lao sẽ mất trung b́nh 3-4 tháng lao động, làm giảm 20-30% thu nhập b́nh quân của gia đ́nh. Những gia đ́nh có người chết sớm v́ bệnh lao có thể sẽ mất tới 15 năm thu nhập [2]. Bệnh lao đă tác động mạnh tới 70% đối tượng lao động chính của xă hội, làm lực lượng sản xuất bị giảm sút, năng suất lao động giảm. Bệnh lao là nguyên nhân chủ yếu gây nghèo đói dai dẳng và là trở ngại đối với sự phát triển kinh tế xă hội. Như vậy, bệnh lao là kết quả của nghèo đói và nghèo đói lại là nguyên nhân làm cho bệnh lao phát triển.
    1.1.1.1 Bệnh lao và HIV/AIDS
    Theo TCYTTG đến cuối năm 2002, trên thế giới có 42 triệu người nhiễm HIV, trong đó 50% đồng nhiễm lao và HIV [2].
    HIV là yếu tố nguy cơ làm cho người nhiễm lao phát triển thành bệnh lao, nguy cơ đó cao gấp 30 lần so với người không bị nhiễm HIV. Đại dịch HIV/AIDS đă làm tăng ít nhất 30% số bệnh nhân lao trên loàn cầu và bệnh lao là nguyên nhân gây tử vong cho 1/3 số đối tượng nhiễm HIV trên toàn cầu. Như vậy, đại dịch HIV đang làm tăng thêm gánh nặng đồng thời làm giảm hiệu quả của Chương tŕnh chống lao.
    TCYTTG và nhiều đối tác đang kêu gọi tăng cường sự hợp tác và liên kết giữa Chương tŕnh chống lao quốc gia và Chương tŕnh HIV/AIDS, đặc biệt là ở Cam-pu-chia, Trung Quốc, Pa-pua-Niu-Ghi-nờ và Việt Nam, là những nơi có số người đồng nhiễm Lao/HIV đang gia tăng. Nghiên cứu về tỷ lệ HIV trong số bệnh nhân lao tại Cam-pu-chia năm 2003 cho thấy lại thủ đô Phnom Penh, tỷ lệ bệnh nhân lao nhiễm HIV tăng gần gấp 3 lần so với năm 1995 (từ 11% năm 1995 lên 31% năm 2003) [2].
    1.1.1.2 T́nh h́nh bệnh lao kháng thuốc
    Theo TCYTTG, hiện nay bệnh lao kháng thuốc là một vấn đề toàn cầu, đặc biệt nghiêm trọng là t́nh h́nh kháng đa thuốc. Bệnh lao kháng thuốc xuất hiện khi có vi khuẩn lao kháng với một hoặc nhiều loại thuốc chống lao, nguyên nhân là do bệnh nhân không hợp tác, khụng luơn thủ đúng nguyên tắc điều trị được quy định của CTCL, một nguyên nhân khác hay gặp là do thầy thuốc kê đơn không đúng do không phối hợp đầy đủ các thuốc chống lao, liều lượng thuốc không đủ, hướng dẫn bệnh nhân không đúng cách, điều trị không đủ thời gian, .
    Kết quả điều trị với bệnh nhân kháng thuốc thường không cao, nhất là đối với bệnh nhân kháng đa thuốc. Chi phí điều trị bệnh nhân lao kháng đa thuốc tăng lên 100 lần so với bệnh nhân lao khụng khỏng thuốc và thậm chí không điều trị được ở một số trường hợp[2].
    1.1.2 T́nh h́nh bệnh lao ở Việt Nam
    Năm 1995, trước những biến động xấu đi của t́nh h́nh dịch tễ bệnh lao toàn cầu, công tác chống lao thực sự bắt đầu phải đối mặt với những thách thức mới là bệnh lao kháng thuốc và Lao/HIV, Nhà nước và Bộ Y tế Việt nam đă quyết định đưa Chương tŕnh chống lao thành một trong những Chương tŕnh y tế Quốc gia trọng điểm. Cùng với sự đầu tư phát triển các Chương tŕnh y tế quốc gia nói chung, Bộ Y tế và Chính phủ đă ưu tiên đầu tư đồng bộ lượng rất lớn cán bộ, kinh phí và trang thiết bị cho Chương tŕnh chống lao. Ban chỉ đạo chương tŕnh chống lao và Chính quyền địa phương các cấp đă tham gia tích cực triển khai công tác này, cùng với sự hợp tác và giúp đỡ có hiệu quả về tài chính và kỹ thuật của các tổ chức Quốc tế.
    Năm 1996, Chương tŕnh chống lao quốc gia với sự hỗ trợ về kỹ thuật và tài chính của Chính phủ Hà Lan, Hiệp hội chống lao Hoàng gia Hà Lan, Uỷ ban hợp tác y tế Hà Lan - Việt nam, chương tŕnh chống lao quốc gia (CTCLQG) đă h́nh thành và xây dựng kế hoạch pḥng chống lao giai đoạn 1996-2000. Đến năm 1999, chiến lược DOTS (điều trị bằng hoá trị liệu ngắn ngày có kiểm soát trực tiếp) đă bao phủ 100% số huyện trên cả nước [2].
    Trong giai đoạn 1997-2002, CTCLQG đă phát hiện được 532.703 bệnh nhân lao các thể, tỷ lệ phát hiện đạt 82% số bệnh nhân ước tính (so với mục tiêu của TCYTTG là 70%), CTCLQG đă điều trị 260.698 bệnh nhân lao phổi AFB(+) với tỷ lệ khỏi là 92%.
    Năm 2002, khu vực Tơy-Thỏi Bỡnh Dương phát hiện 806.460 bệnh nhân lao các thể, 372.220 bệnh nhân lao phổi AFB(+) mới. Trong đó, số bệnh nhân do CTCLQG Việt nam phát hiện chiếm 12% bệnh nhân các thể và 15% số bệnh nhân lao phổi AFB(+) mới[2].
    Với những kết quả đạt được trong chỉ tiêu phát hiện và điều trị bệnh nhân, năm 1996, Việt nam là nước đầu tiên ở Châu Á đă đạt được mục tiêu của TCYTTG. Kiểu h́nh hoạt động chống lao ở Việt nam được xem là kiểu h́nh để học viên các nước học tập.
    Nhân ngày Thế giới Chống lao, 24/3/2004, tại Diễn đàn các Đối tác chống lao lần thứ 2 do TCYTTG tổ chức tại New Dehli, CTCLQG Việt Nam là một trong 6 nước trên thế giới (bao gồm: Việt Nam, Pờru, Madives, Cuba, Tunisia và Morocco) và là nước duy nhất trong 22 nước có gánh nặng bệnh lao cao được nhận giải thưởng của TCYTTG về thành tích đă đạt được mục tiêu của TCYTTG và kết quả có tính bền vững trên 4 năm.
    Hiện nay nguy cơ nhiễm lao hàng năm ở nước ta ước tính là 1,5% (ở các tỉnh phía Namlà 2%, ở các tỉnh phía Bắc là 1%). Ước tính với dân số 70-80 triệu, hàng năm ở nước ta có[2]:
    [TABLE]
    [TR]
    [TD]- Tổng số mới mắc lao (các thể):[/TD]
    [TD]130.000[/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]- Số lao phổi BK dương tính mới:[/TD]
    [TD]60.000[/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]- Tổng số trường hợp lao:[/TD]
    [TD]260.000[/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]- Tổng số lao phổi BK dương tính:[/TD]
    [TD]120.000[/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]

    Trên thực tế, chỉ số nguy cơ nhiễm lao hàng năm có thể cao hơn 1,5%, như vậy các con số nêu trên có thể c̣n lớn hơn. Điều đó sẽ tăng thêm sự khó khăn đối với công tác chống lao không những trong những năm tới mà có thể c̣n trong thời gian khá dài, ngay cả khi đă bước sang thiên niên kỷ mới.
    T́nh h́nh Lao/HIV ở Việt Nam
    Qua theo dơi một số địa phương cho thấy xu hướng tăng số lượng bệnh nhân Lao/HIV hàng năm. Số lượng bệnh nhân Lao/HIV tăng sẽ làm tăng gánh nặng và giảm hiệu quả của CTCLQG v́ việc chẩn đoán bệnh lao ở người nhiễm HIV khó khăn hơn, tỷ lệ tử vong trong số bệnh nhân Lao/HIV cao hơn sẽ làm giảm kết quả điều trị khỏi bệnh của Chương tŕnh.
    Theo số liệu giám sát trọng điểm của Chương tŕnh HIV/AIDS cho thấy tỷ lệ HIV(+) trong số bệnh nhân lao năm 2002 trên cả nước khoảng 3,2%, trong đó có 10 tỉnh > 3% (Hồ Chí Minh 9,4% và An Giang 4,8%)[2].

    1.2 VI KHUẨN GÂY BỆNH LAO M. tuberculosis
    1.2.1 Đặc điểm và phân loại vi khuẩn lao Mycobacterium tuberculosis
    Trực khuẩn lao M.tuberculosis được t́m thấy vào ngày 24 tháng 3 năm 1882 bởi Robert Koch.Với thành công này, ông đă nhận được giải thưởng của Nobel về vi sinh vật học và y học năm 1905 [6]. Mycobacterium là giống vi khuẩn thuộc họ Mycobacteriaceae,bộ Actinomycetes, là trực khuẩn hiếu khí bắt buộc, tế bào vi khuẩn lao dài từ 2-4àm, rộng 0,3-0,5àm, không có lông, hai đầu tṛn. Với phương pháp nhuộm Ziehl-Neelsen, vi khuẩn không bị cồn hay axớt làm mất màu đỏ Fucsin. Khuẩn lạc có màu kem hoặc vàng đỏ do sinh sắc tố porphyrin, carotenoid, và có dạng xù x́ h́nh suplơ [1].
    Bảng 2. Tính chất của các vi khuẩn thuộc nhóm trực khuẩn lao [6]
    [TABLE]
    [TR]
    [TD]Vi khuẩn
    [/TD]
    [TD]H́nh thái khuẩn lạc[/TD]
    [TD]Nhiệt độ phát triển thích hợp[/TD]
    [TD]Thời gian mọc khuẩn lạc[/TD]
    [TD]Khả năng gây bệnh[/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]M.tuberculois

    M.bovis

    M.avium

    M.mioroti[/TD]
    [TD]Xự xỡ,màu kem

    Xự xỡ,mỏng,trong

    Màu hồng

    Màu trắng[/TD]
    [TD]37[SUP] o[/SUP]C

    37[SUP] o[/SUP]C

    37[SUP] o[/SUP]C

    37[SUP] o[/SUP]C[/TD]
    [TD]30 ngày

    30 ngày

    10 ngày[/TD]
    [TD]Lao người

    Lao ḅ

    Lao chim,

    Lao người,
    Lao chuột[/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]

    Trong điều kiện tự nhiên vi khuẩn lao có thể tồn tại 3-4 tháng, trong pḥng thí nghiệm có thể tồn tại trong nhiều năm. Dưới ánh sáng mặt trời vi khuẩn lao chết trong 1,5 giờ. Nếu chiếu tia cực tím th́ vi khuẩn chỉ tồn tại trong 2-3 phút, ngừng phát triển từ 42[SUP]o[/SUP]C, chết sau 10 phút tại 86[SUP]o[/SUP]C, ở cồn 90[SUP]o[/SUP] chết trong 3 phút, trong axớt phenic 5% chết trong ṿng 1 phút [1].
    1.2.2 Đặc điểm bệnh sinh
    Lao là một bệnh lây: Nguồn lây chủ yếu của vi khuẩn lao thông qua con đường hô hấp, người hít phải những mẫu đờm của bệnh nhân lao phổi khi ho, khạc, hắt hơi sẽ bị nhiễm lao. Ngày nay bệnh lao c̣n có thể lây qua các con đường khác như tiêu hóa, da, niêm mạc [ 1]
    Triệu chứng đầu tiên của bệnh lao bao gồm: mệt mỏi, sút cân và ra mồ hôi về đêm. Các triệu chứng của thể lao phổi bao gồm: ho kéo dài, có thể ho ra máu và đau ngực. Tuy nhiên, ở trẻ em dấu hiệu của lao phổi chỉ là trẻ phát triển chậm hoặc không tăng cân.
    1.3 MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP CHẨN ĐOÁN, XÉT NGHIỆM, PHÂN LOẠI VI KHUẨN LAO
    1.3.1 Các phương pháp không sử dụng yếu tố di truyền
    1.3.1.1 Soi kính
    Kĩ thuật soi kính trực tiếp sử dụng thuốc nhuộm Ziehl-Neelsen, huỳnh quang để phát hiện trực khuẩn lao là kỹ thuật cơ bản được sử dụng rộng răi cho đến nay trong các pḥng thí nghiệm tuyến huyện trở lên, cho kết quả nhanh và giá thành thấp hơn so với tất cả các phương phỏp khỏc. Giới hạn để phát hiện được vi khuẩn lao bằng kỹ thuật này là 5000 – 10000 vi khuẩn trên ml. Độ nhạy soi kính phụ thuộc vào loại bệnh phẩm và tŕnh độ kĩ thuật viên. Thông thường th́ độ nhạy ở ngưỡng 46-78%, độ đặc hiệu là 100%. Độ nhạy của kĩ thuật có thể được cải thiện nếu mẫu bệnh phẩm được li tâm thu cặn tế bào trước khi tiến hành nhuộm soi. Kết quả nhuộm soi kính trực tiếp không phân loại được các chủng vi khuẩn Mycobacteria [3].
    [​IMG][​IMG]
    H́nh 1. H́nh ảnh vi khuẩn lao khi nhuộm Ziehl-Neelsen và huỳnh quang.

    1.3.1.2 Phương pháp xác định acid tuberculostearic (TBSA)
    Acid tuberculostearic (TBSA) là axớt bộo cú trong thành phần vách tế bào của vi khuẩn Mycobacteria và các vi khuẩn Actinomycetales khác như là Nocardia Actinomyces. TBSA được phát hiện nhờ kĩ thuật sắc kớ khớ - khối phổ kết hợp với định lượng ion có chọn lọc. Khi cấu trúc vách tế bào Mycobacteria được máy sắc kí nghiền nhỏ thành các đơn chất, các chất này bị ion hóa và chuyển động trong điện trường của máy đo khối lượng phân tử, thông qua số lượng các ion đo được có thể suy ra khối lượng của TBSA có trong bệnh phẩm. Bệnh phẩm có thể là đờm, dịch màng phổi, dịch năo tủy, dịch dạ dày, dịch màng bụng. Độ nhạy và độ đặc hiệu của kĩ thuật này khá cao, thời gian trả kết quả sau khoảng 3 giờ. Tuy nhiên TBSA lại không chỉ có ở vi khuẩn lao, v́ thế phải lưu ư đến những mẫu bệnh phẩm có thể chứa các vi khuẩn khác cũng có TBSA [3].
    1.3.1.3 Phương pháp xác định kháng nguyên
    Người ta sử dụng kĩ thuật ELISA để xác định kháng nguyên Mycobacteria trong bệnh phẩm. Kĩ thuật giảm độ đặc hiệu nếu sử dụng kháng thể đa ḍng. Nhiều nghiên cứu [15] đó dùng kháng thể đơn ḍng để xác định kháng nguyên M. tuberculosis, cho độ đặc hiệu cao hơn so với các loại kháng thể đa dũng khỏc. Phương pháp cho kết quả nhanh, kĩ thuật và phương tiện không đ̣i hỏi cao. Độ nhạy và đặc hiệu khá cao đối với bệnh nhân lao phổi, c̣n với lao ngoài phổi th́ vẫn c̣n hạn chế do lượng vi khuẩn lao có trong bệnh phẩm phần lớn ít hoặc không phát hiện được. Tuy nhiên phương pháp này chưa đạt được độ nhạy cao hơn so với phương pháp soi kính phát hiện trực khuẩn kháng axit (AFB) trực tiếp trong mẫu bệnh phẩm, nờn tớnh ứng dụng c̣n hạn chế.
    1.3.1.4 Phương pháp xác định kháng thể đặc hiệu với M.tuberculosis
    Xác định kháng thể kháng M.tuberculosis trong huyết thanh là phương pháp được sử dụng cho chẩn đoán sàng lọc lao, đặc biệt có ích trong chẩn đoán cộng điểm lao trẻ em, chẩn đoán sàng lọc lao ngoài phổi, là những thể lao ít vi khuẩn, khó xác định bằng các phương pháp phát hiện tác nhơn gơy bệnh trực tiếp như soi kính và nuôi cấy. Kháng nguyên của vi khuẩn lao được chiết xuất từ tế bào vi khuẩn bằng phương pháp siêu nghiền tế bào (kháng nguyên siêu nghiền) hoặc tách thành các thành phần riêng biệt, tùy theo bản chất hoặc trọng lượng phân tử khác nhau, phụ thuộc mục đích nghiên cứu hay chiết xuất từ môi trường nuôi cấy (kháng nguyên hoà tan). Kháng nguyên có thể là protein, peptidoglican, polysaccharide. Các kháng thể đớch phát hiện là IgG, IgA, IgM đặc hiệu. Trong đó chỉ số IgG đặc hiệu thường được sử dụng do có hiệu giá cao hơn, thời gian tồn tại trong huyết thanh dài hơn, có vai tṛ đặc trưng cho t́nh trạng nhiễm lao của cơ thể [4].
    1.3.1.5 Phương pháp nuôi cấy
    Nuôi cấy phân lập vi khuẩn lao là phương pháp “tiờu chuẩn vàng” để chẩn đoán bệnh lao. Bệnh phẩm được cấy trên môi trường đặc Loweinstein-Jensen, Ogawa, Kudoh, môi trường thạch Middlebrook, canh thang Kirchner và ủ ấm ở 37ºC. Khuẩn lạc có màu kem hoặc vàng đỏ và có dạng xù x́ h́nh suplơ. Sau 1 -2 tháng hoặc có khi lâu hơn mới xác định được kết quả chính xác. Phương pháp này có độ nhạy và đặc hiệu cao hơn so với phương pháp soi kính, đồng thời phân loại được vi khuẩn lao. Nhưng phương pháp đ̣i hỏi thời gian nuôi cấy dài, giá thành cao nên chỉ sử dụng cho các trường hợp không đáp ứng với thuốc điều trị, cần nuôi cấy để làm kháng sinh đồ nhằm xác định tính nhạy cảm của chủng vi khuẩn, phục vụ công tác điều trị [3,6].
    1.3.1.6 Thử nghiệm trong da (Phản ứng Mantoux)
    Nguyên tắc chung của phản ứng là đưa một lượng kháng nguyên đặc hiệu thích hợp vào da, nếu cơ thể đă nhiễm vi khuẩn sẽ xảy ra sự tương tác giữa kháng nguyên và tế bào lympho mẫn cảm, đại thực bào, gây nên phản ứng viêm. Phản ứng xảy ra mạnh nhất sau khoảng 70 giờ sau tiêm. Kháng nguyên hay sử dụng là kháng nguyên protein chiết xuất từ dịch nuôi cấy trực khuẩn lao (PPD). Đây là phương pháp thực hiện đơn giản, cho kết quả nhanh (sau 72 giờ), giá thành thấp, tuy nhiên đ̣i hỏi kỹ năng tiêm trong da chính xác. Độ đặc hiệu của phương phỏp khụng cao do ảnh hưởng của việc tiêm BCG. Hiện nay người ta dự tớnh sử dụng dạng kháng nguyên khác của M.tuberculosiscó trọng lượng phân tử là 38 kDa, là kháng nguyên có tính đặc hiệu do vậy có triển vọng hơn, khắc phục được hạn chế của kháng nguyên PPD [3,15]. Tuy nhiên cho đến nay, phương pháp tiêm trong da sử dụng PPD vẫn đang được sử dụng trên thế giới do kháng nguyên mới vẫn đang trong quá tŕnh nghiên cứu.
     
Đang tải...