Tiểu Luận Một số kiến nghị & Giải pháp đối với hoạt động tín dụng quốc tế tại Ngân Hàng CT Ba Đình

Thảo luận trong 'Ngân Hàng' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    168
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Đề tài: Một số kiến nghị & Giải pháp đối với hoạt động tín dụng quốc tế tại Ngân Hàng CT Ba Đình


    MỤC LỤC​

    Chương I: Thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại


    I/ Hoạt động kinh tế đối ngoại với sự nghiệp CNH - HĐH ở Việt Nam



    Việt Nam là nước nghèo và kém phát triển, nông nghiệp lạc hậu, trang bị kỹ thuật và kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội thấp kém. Vì vậy việc tiến hành CNH -HĐH đất nước là yêu cầu cấp bách đối với Việt Nam. Có đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước thì chúng ta mới có thể nâng cao đời sống người lao động, rút ngắn khoảng cách tụt hậu và tiến tới theo kịp các nước trong khu vực và trên thế giới.

    Để thực hiện CNH - HĐH đất nước chúng ta cần phải có khối lượng vốn lớn, trong khi đó thu nhập quốc dân đầu người của chúng ta còn rất thấp, do vậy khả năng tích luỹ nội bộ còn thấp. Bên cạnh đó quy mô nền kinh tế Việt Nam nhỏ bé cả về chỉ tiêu GDP và kim ngạch xuất nhập khẩu, cơ cấu kinh tế còn mang tính lạc hậu, trình độ công nghệ thấp, vẫn là nền kinh tế ở giai đoạn khai thác tài nguyên và sức lao động, hàm lượng khoa học công nghệ và hàm lượng vốn thấp, hệ thống cơ sở hạ tầng thấp kém.

    Tuy nhiên Việt Nam là đất nước nhiều tiềm năng như có nguồn nhân lực dồi dào, giá nhân công rẻ, tư chất người Việt Nam cần cù, sáng tạo, tài nguyên thiên nhiên đa dạng và phong phú, vị trí địa lý có nhiều thuận lợi nằm trên đường hàng không và hàng hải quốc tế quan trọng.

    Để thực hiện thành công sự nghiệp CNH - HĐH, đất nước Việt Nam cần đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại vì:

    + Thông qua hoạt động kinh tế đối ngoại mà khai thác có hiệu quả những lợi thế của đất nước, tham gia sâu rộng vào sự trao đổi và phân công lao động quốc tế, đổi mới cơ cấu kinh tế, hình thành cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH, gắn thị trường trong nước với thị trường thế giới, từng bước hoà nhập nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới.

    + Thông qua hoạt động kinh tế đối ngoại để tạo nguồn ngoại tệ cần thiết phục vụ cho việc nhập khẩu các thiết bị kỹ thuật hiện đại, công nghệ tiên tiến .

    + Tận dụng kỹ thuật hiện đại, công nghệ tiên tiến, trình độ quản lý vốn đầu tư nước ngoài nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng, nâng cao trình độ công nghệ và trình độ quản lý của đất nước nhằm đẩy mạnh quá trình CNH - HĐH đất nước.

    + Giải quyết việc làm, tăng thu nhập và nâng cao đời sống người lao động và tăng tích luỹ cho nền kinh tế, phục vụ cho sự nghiệp CNH -HĐH đất nước.

    Như vậy việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại có ý nghĩa thực tiễn đối với mọi quốc gia, đặc biệt là đối với nước ta, nơi mà nền kinh tế kém phát triển, nghèo nàn, lạc hậu trong khi dân số đông và tốc độ tăng dân số còn cao. Nước ta muốn phát triển, muốn rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh thì chúng ta phải đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, nhanh chóng CNH - HĐH đất nước, đưa nền kinh tế Việt Nam tham gia ngày càng mạnh mẽ vào sự phân công lao động, hợp tác quốc tế và thương mại quốc tế.


    II/ Hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng


    1. Khái niệm

    Thanh toán quốc tế (TTQT) là việc chi trả các nghĩa vụ và yêu cầu về tiền tệ phát sinh từ các quan hệ kinh tế, thương mại, tài chính , tín dụng giữa các tổ chức kinh tế Quốc tế, giữa các hãng, các cá nhân của các Quốc gia khác nhau để kết thúc một chu trình hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại bằng các hình thức chuyển tiền hay bù trừ trên các tài khoản tại Ngân hàng.

    Khác với thanh toán nội địa, TTQT thường gắn liền với việc trao đổi giữa đồng tiền của nước này sang đồng tiền của nước khác. Nội tệ với chức năng là phương tiện lưu thông, phương tiện thanh toán theo luật định trong phạm vi một nước sẽ không thể vượt qua giới hạn của nó nếu như 2 bên liên quan trong hợp đồng không có một thoả thuận nào cụ thể về vấn đề đó. Do vậy khi ký kết các hợp đồng thương mại, tín dụng . các bên thường đàm phán thống nhất về đồng tiền nào được sử dụng trong giao dịch, nó có thể là đồng tiền của nước người bán hay của nước người mua hay có thể là đồng tiền của một nước thứ 3. Các đồng tiền được sử dụng trong TTQT chủ yếu là các loại ngoại tệ mạnh có khả năng chuyển đổi tự do như USD, GBP . Những năm gần đây do sự mất giá của đồng USD so với một số đồng tiền khác nên vị trí của nó trên thị trường có phần giảm sút. Do đó một số đồng tiền của các quốc gia khác như DEM, FRF, JPY ngày càng được sử dụng nhiều hơn trong TTQT. Mặc dù vậy đồng USD, GBP vẫn giữ được vai trò chủ đạo của nó trong TTQT, trong mua bán ngoại tệ bởi sự tiện lợi và nhanh chóng trong việc thực hiện các giao dịch.

    Hiện nay phần lớn việc chi trả trong TTQT được thực hiện thông qua điện tín, bưu điện, mạng SWIFT hoặc qua các uỷ nhiệm thu, chi hộ lẫn nhau giữa các Ngân hàng. Do vậy tỷ lệ trả bằng tiền mặt trong TTQT chiếm một phần không đáng kể.

    TTQT có vị trí và tầm quan trọng đặc biệt trong hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay khi mỗi quốc gia đều đặt hoạt động kinh tế đối ngoại ở vị trí hàng đầu, coi hoạt động kinh tế đối ngoại là con đường tất yếu trong chiến lược phát triển kinh tế của mình.

    2. Điều kiện của TTQT

    Trong quan hệ thanh toán giữa các nước, các vấn đề có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của đôi bên được quy định thành những điều kiện TTQT. Các điều kiện đó là:

    + Điều kiện về địa điểm: phụ thuộc vào hợp đồng các bên ký kết, địa điểm đó có thể ở nước người xuất khẩu hoặc ở nước người nhập khẩu.

    + Điều kiện về tiền tệ: là chỉ việc sử dụng đồng tiền nào để tính toán và thanh toán hợp đồng và hiệp định ký kết giữa các nước, đồng thời quy định cách xử lý khi giá trị của đồng tiền đó biến động.

    + Điều kiện về thời gian: có liên quan chặt chẽ tới việc luân chuyển vốn phi lợi tức và có thể tránh được những rủi ro tổn thất do tỷ giá đồng tiền thanh toán biến động. Vì vậy xảy ra mâu thuẫn đó là người được thu tiền muốn thu tiền nhanh còn người phải trả tiền thì muốn trả chậm. Trong khi đàm phán ký kết hợp đồng, việc quy định thời hạn trả tiền còn phụ thuộc vào những yếu tố như tình hình thị trường, đối tượng hàng hoá, mối quan hệ giữa các bên liên quan.

    + Điều kiện về phương thức thanh toán: là cách thức nhận trả tiền hàng trong từng món giao dịch, mua bán giữa người mua và người bán. Trong quan hệ mua bán Quốc tế có nhiều phương thức thanh toán khác nhau để thu tiền hoặc để trả tiền như: chuyển tiền, nhờ thu, thư tín dụng .
     
Đang tải...