Tài liệu Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Tổng công ty rau quả Việt Nam sang Viễn Đông

Thảo luận trong 'Thương Mại - Marketing' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Đề tài: Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Tổng công ty rau quả Việt Nam sang Viễn Đông - Liên Bang Nga

    MỞ ĐẦU Ngày nay, hoạt động ngoại thương trên thế giới đang diễn ra mạnh mẽ và mang tính rộng khắp. Hơn bao giờ hết, nó trở thành một hoạt động thương mại cực kỳ quan trọng đối với mỗi quốc gia, mỗi doanh nghiệp. Nó cho phép mỗi quốc gia khai thác được lợi thế so sánh trong phân công lao động quốc, tạo nguồn thu ngoại tệ quan trọng cho đất nước. Đối với Việt Nam, hoạt động xuất khẩu có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp xây dựng phát triển đất nước. Bởi vậy Đảng cộng sản Việt Nam đã nhiều lần khẳng định tầm quan trọng đặc biệt của xuất khẩu. Có như vậy Việt Nam mới có điều kiện, khả năng mở rộng hội nhập với thế giới, thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội ổn định đời sống nhân dân.
    Từ đặc điểm nền kinh tế sản xuất nông nghiệp, có tiềm năng lớn về sản xuất rau quả nhiệt đới, Việt Nam đã xác định đây là nguồn lợi có giá trị lớn, đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của nguời tiêu dùng. Do vậy, phát triển sản xuất rau quả gắn với công nghiệp chế biến, phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu đã trở thành một mục tiêu phát triển nền kinh tế đất nước.
    Trong hoạt động xuất khẩu của mình, Việt Nam có ngày càng nhiều các đối tác song có lẽ Liên Bang Nga là bạn hàng có mối quan hệ đặc biệt nhất và lâu năm nhất đối với Việt Nam. Trong những năm nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, Liên Xô là người bạn lớn luôn kề vai sát cánh ủng hộ chúng ta về cả vật chất lẫn tinh thần. Rồi khi bước vào thời kỳ xây dựng XHCN, Chính phủ và nhân dân Liên Xô cũng đã nhiệt tình giúp đỡ Việt Nam trông những ngày đầu khó khăn bằng các hành động thiết thực như đã ký với chúng ta một số hiệp định tương trợ về kinh tế trong đó có Hiệp định rau quả Việt Xô. Hiệp định này đã góp phần không nhỏ trong việc thúc đẩy ngành rau quả tuy có nhiều tiềm năng nhưng còn non trẻ của Việt Nam phát triển.
    Kể từ sau khi Liên Xô tan rã, quan hệ thương mại giữa Việt Nam với Liên Bang Nga và các nước SNG cũng có nhiều thay đổi. Ngành rau quản - vốn coi Liên Bang Nga là một bạn hàng lớn cũng gặp phải những khó khăn do sù thay đổi này. Chính vì vậy việc xem xét lại quá trình hợp tác buôn bán giữa hai nước để từ đó có cái nhìn đúng đắn về thực trạng cũng như tìm ra giải pháp để khắc phục khó khăn thiết nghĩ cũng là một việc nên làm. Bằng những nhận thức của mình sau bốn năm học và đợt thực tập tìm hiểu thực tế tại Tổng công ty rau quả Việt Nam, tôi quyết định chọn đề tài: Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Tổng công ty rau quả Việt Nam sang Viễn Đông - Liên Bang Nga
    Mục đích nghiên cứu của đề tài này là nhằm củng cố, bổ sung và mở rộng những kiến thức thực tế, vận dụng những lý thuyết đã học vào giải quyết một vấn đề thực tiễn trong đời sống kinh tế - xã hội. Phân tích, đánh giá hoạt động xuất khẩu của Tổng công ty rau quả Việt Nam sang thị trường Viễn Đông- Liên bang Nga trong thời gian qua, qua đó chỉ ra được những thành tựu đạt được và những tồn tại cần khắc phục. Từ đó tìm ra những phương hướng, biện pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu rau quả của Tổng công ty trong thời gian tới.
    Đối tượng nghiên cứu của đề tài là sự phát triển của hoạt động xuất khẩu của Tổng công ty rau quả Việt Nam trên thị trường Viễn Đông-Liên Bang Nga.
    Đề tài chỉ nghiên cứu trong phạm vi là hoạt động xuất khẩu của Tổng công ty rau quả Việt Nam.
    Kết cấu của bài viết như sau: Ngoài phần mục lục, lời cam đoan, lời nói đầu, tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài gồm 3 chương sau:
    Chương I: Một số vấn đề lý luận cơ bản về thúc đẩy xuất khẩu trong nền kinh tế quốc dân.
    Chương II: Thực trạng xuất khẩu của Tổng công ty rau quả Việt Nam sang Viễn Đông -Liên Bang Nga.
    Chương III: Những giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu của Tổng công ty rau quả Việt Nam sang Viễn Đông - Liên Bang Nga.

    CHƯƠNG IMỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THÚC ĐẨY XUẤT KHẨUTRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN
    I. Khái niệm, các hình thức và vai trò của hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế quốc dân1. Khái niệm về hoạt động xuất khẩu Xuất khẩu là một bộ phận của hoạt động ngoại thương, trong đó hàng hoá và dịch vụ bán cho nước ngoài nhằm thu ngoại tệ.
    Nếu xem xét góc độ dưới hình thức kinh doanh quốc tế thì xuất khẩu là hình thức cơ bản đầu tiên của doanh nghiệp khi bước vào doanh nghiệp kinh doanh quốc tế. Mọi công ty luôn hướng tới xuất khẩu những sản phẩm của mình ra nước ngoài. Xuất khẩu còn tồn tại ngay cả khi công ty đã thực hiện được các hình thức cao hơn trong kinh doanh quốc tế. Các lý do để một công ty thực hiện xuất khẩu là: Thứ nhất, sử dụng khả năng vượt trội (hoặc những lợi thế) của công ty. Thứ hai, giảm được chi phí cho một đơn vị sản phẩm do nâng cao khối lượng sản xuất. Thứ ba, nâng cao được lợi nhuận công ty. Thứ tư, giảm được rủi ro do tối thiểu hóa sự giao động của nhu cầu.
    Khi một thị trường chưa bị hạn chế bởi thuế quan, hạn ngạch, các quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật, trên thị trường còn Ýt đối thủ cạnh tranh hay năng lực của các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế chưa đủ để thực hiện các hình thức cao hơn thì hình thức xuất khẩu thường được lựa chọn. Bởi vì so với đầu tư thì rõ ràng xuất khẩu đòi hỏi một lượng vốn Ýt hơn, rủi ro thấp hơn và đặc biệt là thu được hiệu quả kinh tế trong một thời gian ngắn.
    2. Các hình thức xuất khẩu Xuất khẩu không phải là hành vi mua bán đơn lẻ mà là cả hệ thống các quan hệ mua bán, đầu tư từ trong nước ra bên ngoài nhằm mục đích đẩy mạnh sản xuất hàng hoá, chuyển đổi kinh tế cho phù hợp và từng bước nâng cao đời sống nhân dân. Hiện nay trên thế giới, tuỳ điều kiện hoàn cảnh của mỗi quốc gia cũng như từng chủ thể trong giao dịch thương mại quốc tế mà người ta lựa chọn các phương thức giao dịch khác để tiến hành một cách có hiệu quả hoạt động này.
    Như vậy, hoạt động xuất khẩu mang tính đa dạng về hình thức. Trong quản lý, căn cứ vào các hệ thống phân loại khác nhau có thể phân hoạt động xuất khẩu thành các hình thức sau:
    2.1. Xuất khẩu trực tiếpXuất khẩu trực tiếp là việc nhà sản xuất trực tiếp tiến hành các giao dịch với khách hàng nước ngoài thông qua các tổ chức cuả mình. Hình thức này được áp dụng trong khi nhà sản xuất đã đủ mạnh để tiến tới thành lập tổ chức bán hàng riêng của mình và kiểm soát trực tiếp thị trường. Tuy rủi ro kinh doanh có tăng lên song nhà sản xuất có cơ hội tăng thu lợi nhuận nhờ giảm bớt các chi phí trung gian và nắm bắt kịp thời các thông tin về biến động thị trường để có biện pháp đối phó.
    2.2. Gia công xuất khẩu Trong hình thức này, các doanh nghiệp kinh doanh hàng xuất khẩu đứng ra nhập nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm cho các doanh nghiệp gia công sau đó thu hồi thành phẩm để xuất lại cho bên nước ngoài và hưởng thù lao gọi là phí gia công.
    Hình thức này có ưu điểm là không cần bỏ vốn vào kinh doanh nhưng đạt hiệu quả tương đối cao, rủi ro thấp, thanh toán bảo đảm. Nhưng đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ kinh doanh có nhiều kinh nghiệm về nghiệm vụ gia công xuất khẩu. Khi ký hợp đồng gia công với nước ngoài cần có người am hiểu về việc kýkết hợp đồng, mặt hàng gia công để đạt hiệu quả cao nhất.
    2.3. Xuất khẩu uỷ thác Xuất khẩu uỷ thác được áp dụng trong trường hợp một doanh nghiệp có hàng hoá muốn xuất khẩu, nhưng không được phép tham gia trực tiếp vào hoạt động xuất khẩu hoặc không có điều kiện để tham gia. Khi đó, họ sẽ uỷ thác cho doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá xuất nhập khẩu làm dịch vụ xuất khẩu hàng hoá cho mình. Bên nhận uỷ thác sẽ thu được phí uỷ thác.
    2.4. Buôn bán đối lưu Đây là hình thức giao dịch mà trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu người bán hàng đồng thời là người mua, lượng hàng hoá trao đổi có giá trị tương đương.
    Trong trường hợp này, mục đích của xuất khẩu không nhằm thu về một khoản ngoại tệ mà nhằm thu về một lượng hàng hoá có giá trị tương đương với lô hàng xuất khẩu. Có nhiều hình thức buôn bán đối lưu như: hàng đổi hàng (phổ biến), trao đổi bù trừ, chuyển giao nghĩa vụ .
    2.5. Xuất khẩu theo nghị định thư Xuất khẩu theo nghị định thư là hình thức xuất khẩu hàng hoá (thường là hàng trả nợ) được ký kết theo nghị định thư giữa hai Chính phủ. Xuất khẩu theo hình thức này có ưu điểm là đảm bảo được thanh toán (do Nhà nước là người thanh toán cho doanh nghiệp).
    2.6. Xuất khẩu tại chỗ Theo hình thức này hàng hoá và dịch vụ có thể chưa vượt ra ngoài biên giới nhưng ý nghĩa kinh tế của nó tương tự như hoạt động xuất khẩu. Đó là việc cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho các đoàn ngoại giao, cho khách du lịch quốc tế . Hoạt động xuất khẩu tại chỗ có thể đạt hiệu quả cao do giảm bớt chi phí bao bì đóng gói, chi phí vận tải, chi phí bảo quản, thời gian thu hồi vốn nhanh.
    2.7. Tạm nhập, tái xuất Tạm nhập tái xuất là hình thức xuất khẩu đi những hàng hoá đã nhập khẩu trước đây và chưa tiến hành các hoạt động chế biến. Mục đích của hoạt động này là nhằm thu về lượng ngoại tệ lớn hơn lượng ngoại tệ bỏ ra ban đầu, hàng hoá có thể đi từ nước xuất khẩu đến nước tái xuất sang nước nhập khẩu hoặc đi thẳng từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu. Sau đó nước tái xuất sẽ thu tiền của nước nhập khẩu và trả tiền cho nước xuất khẩu.
    3. Vai trò của hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế quốc dân Xuất khẩu đã được thừa nhận là hoạt động rất cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại, là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Việc mở rộng xuất khẩu để tăng thu nhập về ngoại tệ cho và cho nhu cầu xuất khẩu cũng như tạo cơ sở cho phát triển hạ tầng là một mục tiêu quan trọng nhấtcủa chính sách thương mại.
    3.1. Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước Công nghiệp hoá đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo và chậm phát phát triển. Để công nghiệp hoá đất nước trong một thời gian ngắn đòi hỏi phải có một số vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ tiên tiến.
    Nguồn vốn để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn như: Đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ, thu từ hoạt động du lịch, dịch vụ thu ngoại tệ, xuất khẩu lao động . Các nguồn vốn như đầu tư nước ngoài, vay nợ và viện trợ . tuy quan trọng nhưng rồi cũng phải trả bằng cách này hay cách khác ở thời kỳ sau này. Như vậy, nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu CNH - HĐH đất nước là xuất khẩu. Xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu.
    3.2. Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh mẽ. Đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới là tất yếu đối với nước ta.
    Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
    Một là, xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa. Theo cách này nếu một nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển, sản xuất chưa đáp ứng đủ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước mà cứ chờ đợi sự thừa ra của sản xuất thì xuất khẩu sẽ cứ nhỏ bé và tăng trưởng chậm chạp.
    Hai là, coi thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Ta sẽ tập trung đi sâu vào quan điểm này. Theo quan điểm này, xuất khẩu có tác động tích cực tới dịch chuyển cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển thể hiện ở:
    - Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi. Chẳng hạn, khi phát triển ngành dệt xuất khẩu sẽ tạo cơ hội đầy đủ cho việc phát triển ngành sản xuất nguyên liệu như bông hay thuốc nhuộm. Sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến thực phẩm xuất khẩu sẽ có thể kéo theo phát triển của ngành công nghiệp chế tạo thiết bị phục vụ nó.
    - Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần cho sản xuất phát triển ổn định.
    - Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
    - Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế - kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
    - Xuất khẩu đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới và hoàn thiện công việc quản trị sản xuất kinh doanh để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường thế giới.
    3.3. Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân Tác động của xuất khẩu đến đời sống bao gồm rất nhiều mặt. Trước hết sản xuất hàng xuất khẩu là nơi thu hút hàng triệu lao động vào làm việc và có thu nhập không thấp. Xuất khẩu còn tạo nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sốngvà đáp ứng ngày một phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng của người dân.
    3.4. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Xuất khẩu là một hoạt động kinh tế đối ngoại, có thể hoạt động xuất khẩu có sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác tạo điều kiện thúc đẩy các quan hệ này phát triển. Chẳng hạn, xuất khẩu và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng, đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế . Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại nêu trên lại tạo tiền đề cho mở rộng xuất khẩu.
    II. Nội dung của hoạt động xuất khẩu hàng hoá1. Nghiên cứu thị trườngĐây là bước cơ bản, quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của một doanh nghiệp tại một thị trường nhất định. Do đó, các doanh nghiệp phải có sự đầu tư về thời gian và tài chính thích đáng cho công tác này. Nghiên cứu thị trường bao gồm: Nghiên cứu về môi trường luật pháp, chính trị, kinh tế, văn hoá và con người (Hành vi tiêu dùng), môi trường cạnh tranh. Đây là những yếu tố bên ngoài doanh nghiệp buộc các doanh nghiệp phải chấp nhận khi kinh doanh tại một thị trường.
    Nghiên cứu thị trường được thực hiện bằng hai phương pháp: Nghiên cứu tại bàn và nghiên cứu tại hiện trường. Nghiên cứu tại bàn là phương pháp nghiên cứu dựa trên các tại liệu, sách báo, Ên phẩm . của các cơ quan Nhà Nước, tổ chức quốc tế phát hành. Ưu điểm của phương pháp này là chi phí rẻ song thông tin đưa ra không cập nhật, không phản ánh được bản chất thị trường. Nghiên cứu tại hiện trường là phương pháp nghiên cứu thị trường dựa trên cơ sở các số liệu thực tế được xử lý bằng các công cụ thống kê. Ưu điểm của phương pháp này là những thông tin đưa ra có độ tin cậy cao phản ánh được bản chất thị trường song nhược điểm của phương pháp này là đòi hỏi chi phí (Thời gian và tài chính) lớn.
    2. Tạo nguồn hàng xuất khẩu Hàng xuất khẩu là tiền đề vật chất của xuất khẩu hàng hoá. Nguồn hàng xuất khẩu được hình thành từ các nguồn sau:
    2.1. Theo chế độ phân cấp quản lý Nguồn hàng thuộc chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước: Đây là những mặt hàng mà Nhà Nước đã cam kết giao cho nước ngoài trên cơ sở những hiệp định (Hiệp định thương mại, Hiệp định hợp tác sản xuất .) hoặc nghị định thư hàng năm. Sau khi đã ký kết các hiệp định hoặc nghị định thư với nước ngoài, Nhà Nước phân bổ chỉ tiêu cho các đơn vị sản xuất để các đơn vị này phải giao nộp hàng xuất khẩu. Vì thế đối với các đơn vị ngoại thương nguồn hàng này được đảm bảo cả về mặt số lượng, chất lượng và thời hạn giao hàng.
    Nguồn hàng ngoài kế hoạch: Gồm những mặt hàng sản xuất lẻ tẻ. Các tổ chức kinh doanh xuất khẩu căn cứ vào nhu cầu của thị trường nước ngoài tiến hành sản xuất, thu mua, chế biến theo số lượng, chất lượngvà thời hạn giao hàng đã hoặc sẽ được thoả thuận với khách hàng nước ngoài.
    2.2. Theo đơn vị giao hàng Các đơn vị kinh doanh xuất khẩu có thể mua, huy động hàng xuất khẩu từ các nguồn sau: Các doanh nghiệp công nghiệp trung ương và địa phương, các doanh nghiệp nông - lâm trung ương và địa phương, các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp, hợp tác xã, hộ gia đình, các doanh nghiệp trực thuộc.
    2.3. Theo phạm vi phân công của đơn vị kinh doanh xuất khẩu Nguồn hàng trong địa phương là nguồn hàng nằm trong khu vực hoạt động của đơn vị kinh doanh đó. Ví dụ đối với một đơn vị ngoại thương tỉnh thì nguồn hàng trong tỉnh là nguồn hàng trong địa phương.
    Nguồn hàng ngoài địa phương là nguồn hàng không thuộc phạm vi phân công cho đơn vị ngoại thương thu mua nhưng đơn vị đã tranh thủ lập được quan hệ cung cấp hàng xuất khẩu.
    Các đơn vị kinh doanh xuất khẩu phải nắm bắt được nhu cầu thị trường nước ngoài để tạo nguồn hàng cho xuất khẩu kịp thời, đầy đủ tránh tình trạng giao hàng chậm hoặc thiếu.
    3. Lựa chọn đối tác kinh doanh Để thâm nhập thành công thị trường xuất khẩu nước ngoài, doanh nghiệp có thể thông qua một hoặc nhiều doanh nghiệp đang hoạt động trên thị trường đó. Các công ty này có thể là công ty nước sở tại hoặc công ty nước khác đang kinh doanh trên thị trường đó nhưng doanh nghiệp nên lựa chọn các công ty có kinh nghiệm, uy tín trên thị trường, có tiềm lực tài chính . làm đối tác trong hoạt động kinh doanh.
    Khi lựa chọn đối tác kinh doanh, các doanh nghiệp cần thận trọng tìm hiểu đối tác về tất cả các mặt mạnh yếu của họ. Các doanh nghiệp có thể lựa chọn đối tác trên cơ sở bạn hàng có sẵn hoặc có thể thông qua các công ty môi giới, tư vấn, cơ sở giao dịch hoặc phòng thương mại và công nghiệp các nước có quan hệ.
    4. Đàm phán ký kết hợp đồng Đàm phán có các hình thức sau: Đàm phán qua thư tín, đàm phán qua điện thoại và đàm phán bằng gặp gỡ trực tiếp.
    Đàm phán được thực hiện qua các bước sau:
    - Chào hàng: Là việc nhà kinh doanh thể hiện rõ ý định bán hàng của mình đồng thời là lời đề nghị ký kết hợp đồng.
    - Hoàn giá (mặc cả): Là khi người nhận lời chào không chấp nhận mức giá chào đó mà đưa ra mức giá mới để thương lượng.
    - Chấp nhận: Là sự chấp nhận tất cả các điều kiện mà bên kia đưa ra.
    - Xác nhận: Là việc xác nhận lại điều kiện mà mà hai bên đã thoả thuận trước đó. Bước này thường trùng với bước ký kết hợp đồng.
    - Khi ký kết hợp đồng xuất khẩu cần chú ý các điểm sau:
    - Hợp đồng phải được trình bày rõ ràng, sáng sủa, nội dung phản ánh đúng, đầy đủ các vấn đề đã thoả thuận.
    - Ngôn ngữ dùng trong hợp đồng phải là ngôn ngữ thông dụng, phổ biến và cả hai bên phải thông thạo ngôn ngữ này.
    - Người ký kết hợp đồng phải là người có đủ thẩm quyền ký kết.
    - Hợp đồng nên đề cập vấn đề khiếu nại, trọng tài để giải quyết các tranh chấp (nếu có), tránh tình trạng tranh cãi, kiện tụng kéo dài.
    5. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu Sau khi hợp đồng mua bán ngoại thương được ký kết, doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu với tư cách là một bên tham gia ký kết phải có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng đó. Đây là một công việc phức tạp, nó đòi hỏi phải tuân thủ luật pháp quốc tế, tập quán quốc tế và luật của mỗi quốc gia nhưng phải đảm bảo được quyền lợi của quốc gia cũng như quyền lợi và uy tín của bản thân doanh nghiệp.
    Để thực hiện hợp đồng xuất khẩu, doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu cần thực hiện các bước công việc sau:
    - Xin giấy phép xuất khẩu (nếu cần).
    - Kiểm tra L/C xem có đúng với hợp đồng đã ký kết hay không.
    - Chuẩn bị để giao hàng.
    - Kiểm tra hàng hoá.
    - Thuê tàu hoặc uỷ thác thuê tàu (nếu cần).
    III. NHữNG NHÂN Tố ảNH HƯởng đến hoạt động xuất khẩu Trong điều kiện kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu phải thường xuyên nắm bắt các yếu tố của môi trường xuất khẩu, xu hướng vận động và tác động của nó đến toàn bộ quá trình của hoạt động xuất khẩu. Các nhân tố này đã trở nên thật sự quan trọng đối với hoạt động xuất khẩu.
    1. Điều kiện sản xuất trong nước1.1. Điều kiện tự nhiênĐiều kiện tự nhiên là yếu tố khách quan, không nằm trong sự kiểm soát của con người. Đó là cái mà thiên nhiên ban tặng cho mỗi nước. Điều kiện tự nhiên có thể kể đến là khí hậu, đất đai, tài nguyên thiên nhiên và vị trí địa lý. Và sự ảnh hưởng của nó không nhỏ đối với hoạt động sản xuất và hoạt động xuất khẩu. Chúng ta đều biết đất đai và tài nguyên thiên nhiên là hai trong sè

    năm yếu tố đầu vào của hoạt động sản xuất. Vì thế khi chóng ta có được hai yếu tố này hoạt động sản xuất sẽ được thúc đẩy mạnh mẽ hơn góp phần tăng sản lượng sản phẩm xuất khẩu. Bên cạnh đó khí hậu cũng là nhân tố ảnh hưởng đến năng suất và kế hoạch của xuất khẩu. Chẳng hạn khi chóng ta đã ký hợp đồng xuất khẩu gạo sang Mỹ nhưng khi lúa sắp được mùa thì bão ập đến và vụ này thất thu chóng ta không thể có đủ hàng để xuất sang Mỹ. Đây là một điều khó có thể lường trước được.
    1.2. Năng lực về vốn, công nghệ và nguồn nhân lựcĐây là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến chiến lược và thời cơ xuất khẩ, là cơ sở hạ tầng đảm bảo cho sự phát triển sản xuất và phát triển kinh tế đất nước.
    Vốn quyết định đến quá trình xuất khẩu và kết quả của hoạt động xuất khẩu. Có vốn hoạt động xuất khẩu được mở rộng, các nguồn hàng cho xuất khẩu phong phú hơn với chất lượng cao hơn đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Mặt khác, thị trường xuất khẩu sẽ được mở rộng sang các nước và khối các nước có nhu cầu cao về hàng xuất khẩu của chúng ta mà trước kia chóng ta không vào được.
    Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã tác động tích cực đến các mặt của đời sống kinh tế xã hội. Chính nhờ sự phát triển của hệ thống bưu chính viễn thông các doanh nghiệp ngoại thương có thể đàm phán trực tiếp với khách hàng qua điện thoại, telex, fax . giảm bớt được chi phí đi lại.
    Nguồn nhân lực là yếu tố trọng tâm để hoạt động xuất khẩu được thực hiện. Cụ thể đó là những con người đang dẫn dắt, thực hiện hoạt động xuất khẩu. Con người chính là chủ thể của hoạt động xuất khẩu, điều khiển mọi bước đi của nó. Vì vậy có được một nguồn nhân lực dồi dào, giàu kinh nghiệm, có trình độ cao là mục tiêu của các doanh nghiệp xuất khẩu nhằm đưa xuất khẩu sớm đi đến đích của nó.
    2. Môi trường chính trị luật pháp Môi trường chính trị của quốc gia hay khu vực có tác động trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Môi trường chính trị thể hiện ở tính ổn định về chính trị và thái độ ứng xử của chính phủ đối hoạt động của cônh ty nước ngoài. Không một nhà kinh doanh nào lại muốn xuất khẩu hàng hoá của mình đến một thị trường mà thường xuyên xảy ra đình công, bạo động, đang có chiến tranh, hoặc chính phủ nước đó không hoan nghênh do nó ảnh hưởng đến lợi Ých của doanh nghiệp.
    Luật pháp của từng quốc gia hay luật quốc tế cũng có tác động đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Nói một cách khái quát, luật pháp sẽ quyết định và cho phép những hình thức, những loại mặt hàng . mà doanh nghiệp được phép, khuyến khích, hoặc không được phép hoặc hạn chế xuất khẩu ở nước đó cũng như khu vực đó.
    3. Môi trường văn hoá xã hội Môi trường văn hoá xã hội được coi là một tổ hợp phức tạp bao gồm nhiều yếu tố, tín ngưỡng, luật pháp, phong tục tập quán, thói quen tiêu dùng . Đây là điều mà các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu cần chú ý. Chẳng hạn, những người Ên độ không bao giờ ăn thịt bò, những người theo đạo Hồi không được phép ăn mặc hở hang . các doanh nghiệp cần biết những nét văn hoá đặc trưng của từng dân tộc để có các chiến lược xuất khẩu phù hợp .
    4. Môi trường kinh tếMôi trường kinh tế với các yếu tố như thu nhập quốc dân, chính sách tiền tệ, nền tài chính quốc gia, biện pháp khống chế lạm phát của Chính phủ . có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu. Việc am hiểu những yếu tố thuộc môi trường kinh tế sẽ giúp các doanh nghiệp hạn chế được rủi ro khi xâm nhập vào thị trường nước ngoài.
    IV. Vai trò của sản xuất và xuất khẩu rau quả trong nền kinh tế việt nam1. Đặc điểm của mặt hàng rau quả Các loại rau quả là nguồn dinh dưỡng quý giá của con người ở mọi lứa tuổi, ngành nghề. Trong rau quả có các loại đường dễ tiêu, các loại axit hữu cơ, prôtêin, lipit, chất khoáng và các hợp chất thơm và các chất khác, có nhiều loại vitamin như vitamin A, B1, B2, B6, C và chất khoáng. Gần đây khoa học dinh dưỡng đã kết luận rằng rau quả còn cung cấp cho con người nhiều chất xơ, có tác dụng giải các độc tố phát sinh trong quá trình tiêu hoá thức ăn và có tác dụng chống táo bón. Do vậy trong chế độ dinh dưỡng của con người, rau quả là thức ăn không thể thiếu và ngày càng trở nên quan trọng.
    Mặt hàng rau quả có một số đặc điểm chủ yếu sau:
    - Đặc điểm đặc thù của mặt hàng rau quả tươi là dễ bị dập nát, hư hỏng trong quá trình thu hoạch và vận chuyển, do đó ảnh hưởng đến chất lượng và mẫu mã. Nếu buôn bán, xuất khẩu sản phẩm rau quả tươi thì nên đưa hàng trực tiếp từ nơi thu mua đến nơi giao hàng để hạn chế tổn thất. Trong trường hợp thu mua để sản xuất chế biến thì phải có công tác bảo quản đế hàng hoá giữ được chất lượng cần thiết.
    - Những thay đổi về điều kiện tự nhiên cũng như sự thay đổi về thời tiết, tình hình dịch bệnh làm ảnh hưởng đến năng suất và sản lượng cây trồng. Do đó, làm ảnh hưởng đến giá cả và ảnh hưởng trực tiếp đến xuất khẩu.
    - Ở những những năm được, các nông hộ thu hoạch được sản lượng cao, trong khi đó nhu cầu thì không biến đổi đáng kể, điều này dẫn đến tình trạng giá cả có chiều hướng giảm. Theo đúng quy luật thì thị trường sẽ điều tiết quan hệ cung cầu làm giá cả tăng trở lại. Nhưng trong thực tế, do điều kiện tự nhiên thuận lợi làm cho các hộ nông dân lại được mùa, như vậy cung không giảm mà lại tăng làm cho giá tiếp tục giảm một cách nghiêm trọng. Trong trường hợp ngược lại, do thiên tai, sâu bệnh sản xuất mất mùa, cung cấp sản phẩm giảm làm giá thành sản phẩm tăng. Trong trường hợp này, lợi Ých của người sản xuất, người mua đều bị thiệt hại. Thêm nữa, yếu tố tâm lý và đặc thù của sản phẩm cũng có thể gây ra những ảnh hưởng nhất định trên thị trường. Khi giá rau quả tươi giảm, người mua có thể điều tiết quy mô tiêu dùng của mình để được hưởng lợi Ých cao do giá ngày càng giảm, trong khi đó người sản xuất do tâm lý sợ bị lỗ và do tính chất tươi sống của hàng hoá lại có xu hướng tung sản phẩm ra thị trường càng nhanh càng tốt. Chình điều này làm tăng tình hình biến động giá trên thị trường một cách giả tạo, ảnh hưởng đến thu nhập của các hộ nông dân và có thể dẫn tới tâm lý chuyển đổi hình thức làm ăn của người nông dân.
    - Sản phẩm rau quả là sản phẩm mang tính thời vụ cao, mỗi loại rau quả thường có một thời vụ thu hoạch nhất định thường có 2 vô thu hoạch chính là vụ hè và vụ đông. Vì vậy, căn cứ vào thời vụ, đặc tính của từng loại rau quả, cần được xác định rõ kế hoạch thu mua, vận chuyển, kho tàng sao cho phù hợp với từng loại rau quả. Có một số loại cây ăn quả phải qua một thời gian đầu tư xây dựng cơ bản mới đem lại kết quả, nhưng do tình hình biến động của thị trường mà các hộ nông dân phải thay đổi cây trồng thường xuyên gây thiệt hại lớn. Mặt khác do vấn đề nghiên cứu giống và năng suất cây trồng chưa được tốt mà sản phẩm ở nước ta không đồng bộ, chất lượng chưa cao. Điều này cũng gây ảnh hưởng đến lợi Ých của nhười nông dân cũng như gây khó khăn cho người mua, do đó ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu.
    Ngoài những đặc điểm trên, sản phẩm rau quả chế biến còn phụ thuộc vào quy trình sản xuất, máy móc thiết bị. Do hệ thống dây chuyền sản xuất rau quả ở nước ta đã quá lạc hậu, lại chưa được đổi mới là bao do thiếu vốn để đầu tư nên đa số máy móc đã ở trong tình trạng tụt hậu so với thế giới. Chính vì vậy, nó gây ảnh hưởng đến việc sản xuất, chế biến rau quả để tiêu thụ, làm cho sản phẩm chế biến của ta có chất lượng cũng như mẫu mã chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của các nước phát triển mà chỉ dùng để xuất khẩu sang các nước đang phát triển, những nơi có thu nhập trung bình khá, dẫn tới cạnh tranh kém.
    2. Đặc điểm thị trường rau quả thế giớiSản xuất rau quả là ngành quan trọng trong nền nông nghiệp của nhiều nước trên thế giới. Hiện nay, diện tích trồng cây ăn quả của thế giới khoảng 12 triệu ha, năng suất 30-35 tấn/ha, sản lượng đạt 430 triệu tấn, bình quân đầu người đạt 69kg quả/năm (Pháp 191kg, Nhật 160 kg). Diện tích trồng rau của thế giới khoảng 15 triệu ha, năng suất 35-40 tấn/ha, sản lượng đạt 590 triệu tấn. Tiêu thụ bình quân đầu người là 85 kg rau/năm (riêng Châu Á đạt 90 kg).
    Về hoa và cây cảnh, năm 1996 sản lượng thế giới đạt khoảng 20 tỷ USD, trong đó 3 nước đứng đầu (chiếm khoảng 50% giá trị sản lượng toàn thế giới) là Nhật (3,736 tỷ USD), Hà Lan(3,58 tỷ USD), và Mỹ (3,27 tỷ).Trồng hoa, cây cảnh có giá trị rất cao như Iseaen, với diện tích trồng hoa là 6.200ha, hàng năm đã thu được 1,8 tỷ USD xuất khẩu.
    Về năng suất, chất lượng: Do ứng dụng những thành tựu về khoa học kỹ thuật nên nhiều nước đã tạo ra được những giống cây trồng có chất lượng cao, có khả năng chịu hạn, chống sâu bệnh và có năng suất cao, ví dụ cam quýt có thể tới 80 tấn/ha, dứa 120 tấn/ha, cà chua 500 tấn/ha, đậu covert 40 tấn/ha .
    Theo dự báo của Tổ chức Nông Lương thế gới (FAO), trong thời kỳ 2001-2010, nhu cầu tiêu thụ rau quả của thế giới tăng nhanh vì tốc độ tăng dân số thế giới tăng 1,5%/năm, đến năm 2005 đạt 6,5 tỷ người, năm 2010 đạt 7 tỷ người; tốc độ phát triển kinh tế thế giới tăng 3-4%/ năm, tốc độ phát triển thương mại tăng 6-7%/ năm; nhu cầu tiêu thụ rau quả tăng 3,6%/năm, trong khi tốc độ tăng sản lượng rau quả chỉ đạt 2,8%/năm.
    Trình độ phát triển về dân trí và xã hội ảnh hưởng trực tiếp đến sự thay đổi cơ cấu bữa ăn, người dân sẽ giảm tiêu dùng các loại thức ăn nhiều chất béo, chất tinh bột mà tăng tiêu dùng các loại rau quả, ruợu, bia và nước giải khát. Nhu cầu tiêu dùng rau quả sạch có chất lượng cao ngày càng tăng do đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện.
    Trong những năm qua, số lượng rau quả nhập khẩu tăng bình quân 1,8%/ năm. Theo dự báo của FAO, với tốc độ này, đến năm 2010 số lượng rau quả nhập khẩu toàn thế giới sẽ đạt khoảng 1,7 triệu tấn. Các nước nhập khẩu chủ yếu là Pháp, Đức, Canađa, Anh, Mỹ, Nga . Đến năm 2010, số lượng rau quả xuất khẩu trên thế giới khoảng 1,8 triệu tấn. Các nước xuất khẩu rau quả chủ yếu là Trung Quốc, Mỹ, Italia và Hà Lan.
    3. Tình hình sản xuất và xuất khẩu rau quả ở Việt Nam3.1. Điều kiện tự nhiên đối với sản xuất rau quảViệt Nam nằm ở vùng Đông Nam Châu Á, đất nước có chiều dài trên 15 vĩ độ với mấy ngàn km giáp biển Đông, thuộc vùng nhiệt đới gió mùa có mùa đông lạnh (phía Bắc và miền núi), cùng với địa hình từ núi cao đến đồng bằng, đã tạo nên những lợi thế về địa lý sinh thái so với nhiều nước khác trong việc trồng trọt.
    3.2. Tình hình sản xuấtTheo số liệu của tổng cục thống kê trong 11 năm gần đây (1985-1995):
    Về diện tích: Diện tích rau quả có tăng, nhưng tốc độ còn chậm và còn chiếm tỷ lệ nhỏ: 6,8-8,2% trong tổng diện tích các loại cây trồng, trong đó rau đậu 4,3-4,9%, cây ăn quả 2,5-3,3%. Mấy năm gần đây, từ khi có Nghị quyết số 5-BCH Trung Ương Đảng khoá 7 (1993), thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, phát triển mạnh rau quả, trong sản xuất đã có sự chuyển động mới, nhất là trồng cây ăn quả ngày càng tăng trong cả nước. So sánh năm 1995 với 1992, rau đậu từ 445 ngàn ha đã tăng lên 515,8 ngàn ha (tăng 15,9%); cây ăn quả từ 260,9 ngàn ha đã tăng lên 346,6 ngàn ha(tăng 32,8%).
    Về năng suất: Trong 11 năm qua, năng suất rau quả bình quân cả nước tăng chậm và không ổn định, trong khoảng 11,6-12,6 tấn/ha. Các cây ăn quả chủ yếu cũng tương tự: Chuối 15,2-16,3 tấn/ha, cam 10 năm liền dao động trong khoảng 7,1-8,9 tấn/ha, dứa 12-7,7 tấn/ha (giảm) .
    Về sản lượng: Do diện tích rau gần đây tăng khá, nên sản lượng rau năm 1995 cả nước đạt 4.145.600 tấn, bình quân đầu người đạt 56kg/năm. Sản lượng quả cả nước ước tính đạt khoảng 3.000.000 tấn, bình quân đầu người khoảng 40kg/năm.
    Các vùng sản xuất rau quả: Rau quả nước ta có ở hầu hết các tỉnh, thành phố, với quy mô, chủng loại khác nhau. Trải qua quá trình sản xuất lâu dài, đã hình thành những vùng sản xuất rau quả có tập quán sản xuất và kinh nghiệm truyền thống trong các điều kiện sinh thái khác nhau như: Cam, quýt (Đồng Bằng Sông Cửu Long, Hà Giang, Tuyên Quang .); vải, nhãn (tập trung chủ yếu ở các tỉnh Bắc Bộ) . Mặt khác, sự ra đời của hệ thống nhà máy chế biến rau quả từ năm 1960 và sự phát triển xuất khẩu rau quả, nhất là những năm 1980 - 1990 trong chương trình hợp tác rau quả Việt Xô, đã thúc đẩy sản xuất ở nhiều vùng trong nước như: Rau vụ Đông - Xuân ở Đồng Bằng Sông Hồng; ớt, tỏi, hạt tiêu, cam, dứa, chuối, dưa dấu ở cả phía Bắc và phía Nam.
    Trình độ sản xuất rau quả: Nhìn chung trình độ sản xuất rau quả của ta còn thấp so với nhiều nước trên thế giới. Sản xuất rau quả vẫn mang tính tự phát, sản xuất nhỏ, phân tán, theo tập quán.
    Tình hình tiêu thụ: Thời gian qua rau quả nước ta chủ yếu là tiêu thụ trong nước, phần huy động cho chế biến và xuất khẩu mới chiếm tỷ lệ nhỏ. Giai đoạn 1980-1990 xuất khẩu chủ yếu sang Liên Xô cũ và Đông Âu, năm cao nhất tổng khối lượng rau quả xuất khẩu tươi và nguyên liệu chế biến khoảng 300.000 tấn/năm, so với tổng sản lượng rau quả cả nước (khoảng 5 triệu tấn, gồm: rau 3 triệu tấn, quả 2 triệu tấn) thì chỉ chiếm khoảng 6%. Mấy năm gần đây tình hình xuất khẩu sang các thị trường nói trên giảm. Ở trong nước, tuy sản lượng rau quả bình quân đầu người chưa phải là cao nhưng vẫn có tình trạng thừa và thiếu. Vào mùa thu hoạch rộ mỗi loại, nơi trồng nhièu thì rất rẻ, còn những nơi khác thì vẫn thiếu và đắt.
    3.3. Tình hình xuất khẩuRau quả Việt Nam được xuất khẩu từ năm 1957 sang Trung Quốc. Những năm 1960 - 1975 sản xuất và xuất khẩu tăng chậm, do ảnh hưởng của chiến tranh. Từ năm 1976, xuất khẩu rau quả bắt đầu tăng, thị trường chủ yếu là Liên Xô cũ và Đông Âu, nhất là giai đoạn 1986 -1990 _ giai đoạn thực hiện Hiệp định rau quả Việt Xô. Trong 5 năm này, Tổng công ty rau quả Việt Nam (Vegetexco) đã giao hàng cho Liên Xô cũ gần 500 ngàn tấn rau quả tươi và chế biến, kim ngạch 191 triệu Rúp. Xuất khẩu năm cao nhất (1989) đạt 54,4 triệu Rúp. Từ năm 1991, sau những biến động ở Liên Xô và Đông Âu, thị trường rau quả truyền thống bị thu hẹp hẳn. So với thế giới, mức xuất khẩu rau quả của ta hiện nay còn rất nhỏ bé. Theo tài liệu của FAO thì năm 1994, tổng giá trị xuất khẩu rau quả của Việt Nam là 71,7 triệu USD, chỉ chiếm 7,3 % tổng giá trị nông sản xuất khẩu (978 triệu USD). Trong khi đó, số liệu tương ứng của một số nước Châu Á là: Trung Quốc 22,8 %; Thái Lan 20,9 %; Philipin 39,6 %; Thổ Nhĩ Kỳ 49,6 % . với giá trị kim ngạch lớn hơn nhiều so với của ta.
    Dự báo mức tăng trưởng GDP nước ta thời kỳ 2001-2010 đạt từ 7-8%/ năm; mức tiêu thụ rau quả tăng 10%/năm; đến năm 2010 lượng tiêu thị bình quân đầu người đạt khoảng 80-90 kg rau, 60-70 kg quả; khối lượng tiêu dùng rau cả nước từ 7,6-8,6 triệu tấn, khối lượng tiêu dùng quả của cả nước khoảng 5,7-6,7 triệu tấn.
    Theo Quyết định số 182/1999/QĐTTg ngày 3/9/1999 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án phát triển rau quả và hoa, cây cảnh thời kỳ 1999 - 2010 thì kim ngạch xuất khẩu đến năm 2010 đạt 1 tỷ USD/ năm.
    3.4. Vai trò của sản xuất và xuất khẩu rau quả đối với nền kinh tế Việt NamRau quả là loại cây có giá trị cao của nền nông nghiệp đồng thời có giá trị đối với môi trường sinh thái của đất nước. Việt Nam là một nước có điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng phù hợp với nhiều loại rau quả ( nhiệt đới, á nhiệt đới và một số có nguồn gốc ôn đới), hơn 70% lao động trong lĩnh vực nông nghiệp nên phát triển rau quả sẽ là một lợi thế trong nền kinh tế Việt Nam. Phát triển rau quả góp phần khai thác tài nguyên về đất đai, khí hậu của đất nước, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, làm đẹp cho cuộc sồng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái cho đất nước. Phát triển ngành rau quả nhằm góp phần giải quyết một số lượng lớn lao động dư thừa, mà yêu cầu trình độ đối với đội ngũ này không cần cao lắm.
    Việc phát triển ngành rau quả trong nước làm cho việc quản lý chất lượng và vệ sinh thực phâm trong rau quả sẽ đơn giản và dễ dàng hơn đối với một số cơ quan quản lý thực phẩm.
    Với dân số đa phần lạ lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, cùng với việc xem xét nguyên lý về lợi thế so sánh đã gợi mở cho hóng ta một định hướng phát triển kinh tế đó là: Trong giai đoạn hiện nay cần phát triển những mặt hàng sử dụng nhiều lao động, Ýt vốn để sản xuất và xuất khẩu. Nói cụ thể hơn: nước ta phải dựa vào nông nghiệp trong thời gian dài để tăng kim ngạch xuất khẩu cho công nghiệp phát triển. Phát triển công nghiệp rau quả còn để cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến thực phẩm và cong nghiệp chế biến tinh dầu.
    Phát triển sản xuất và chế biế rau quả không chỉ để đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn dùng cho xuất khẩu.Về thực chất đây là biện pháp tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài, kết hơp với những tiềm năng sẵn có trong nước để phát triển nông nghiệp Việt Nam, góp phần tăng trưởng mạnh cho kinh tế.
    Xuất khẩu rau quả góp phần tạo nguồn ngoại tệ dùng cho nhập khẩu máy móc, thiết bị kỹ thuật, công nghiệp tiên tiến để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
    Thông qua xuất nhập khẩu ngành rau quả của ta sẽ tham gia cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả và chất lượng. Đồng thời, hoạt động xuất khẩu rau quả khuyến khích sản xuất nông nghiệp phát triển.
    Trong giai đoạn hiện nay, tuy rau quả không còn mang tính chất quan trọng như là một ngành kinh tế mang lại sự phát triển kinh tế vượt bậc nhưng nó vẫn đang và sẽ là một ngành kinh tế có hiệu quả và phù hợp với những nguồn lực hiện có của chúng ta và sản phẩm có thể cạnh tranh được đối với các mặt hàng tương tự trên thị trường thế giới.
    Xuất khẩu rau quả là một bộ phận của hoạt động xuất khẩu, do vậy, nó có ý nghĩa quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung và các doan nghiệp xuất nhập khẩu rau quả nói riêng. Tổng công ty rau quả Việt Nam là một doanh nghiệp sản xuất và chế biến rau quả lớn nhất nước ta hiện nay, thúc đẩy xuất khẩu rau quả sang các thị trường thế giới chính là mục tiêu của Tổng công ty dù ở trong ngắn hạn và dài hạn. Với gần 20 năm buôn bán với thị trường Nga, Tổng công ty đang tìm mọi biện pháp để thúc đẩy xuất khẩu sang thị trường này.


    CHƯƠNG IITHỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦATỔNG CÔNG TY RAU QUẢ VIỆT NAM SANG VIỄN ĐÔNG - LIÊN BANG NGAI. giới thiệu chung về Tổng công ty rau quả Việt Nam
     
Đang tải...