Thạc Sĩ Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của cộng tác kiểm soát lạm phát ở Việt Nam hiện nay

Thảo luận trong 'Thương Mại' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT
    1.1. KHÁI QUÁT VỀ LẠM PHÁT
    1.1.1 Các quan điểm về lạm phát
    Lạm phát là một hiện tượng phổ biến và thường xuyên trong các quốc gia thực hiện chế độ lưu thông tiền giấy hiện nay. Khi nói đến lạm phát người ta nghĩ ngay đến sự gia tăng liên tục của mức giá chung trong nền kinh tế. Điều này đồng nghĩa với việc suy giảm quá đáng trong sức mua của đồng tiền của một quốc gia. Sức mua của một đồng tiền được đo lường bởi sự biến đổi nghịch đảo của vật giá chung. Nếu sức mua của vật giá chung gia tăng thì sức mua của đồng tiền giảm và ngược lại mức vật giá giảm thì sức mua của đồng tiền tăng. Hay có thể hiểu rằng lạm phát là việc phát hành thừa tiền giấy vào lưu thông, làm cho tiền giấy bị mất giá, giá cả hàng hoá tăng lên, thu nhập quốc dân bị phân phối lại gây thiệt hại đến toàn bộ đời sống kinh tế – xã hội. Vậy đâu chính là nguyên nhân của lạm phát.
    Có thể giải thích nguyên nhân của lạm phát dựa trên giác độ mối quan hệ cung cầu, tức mức giá chung tăng khi tổng cung giảm hoặc tổng cầu tăng. Tổng cung giảm có thể là do các cú sốc bất lợi về phía cung như giá của các yếu tố sản xuất tăng, cung lao động giảm. Tổng cầu tăng có thể là do tăng chi tiêu của chính phủ, giảm thuế hay do tăng cung tiền. Tổng cung giảm hay tổng cầu tăng liên tục sẽ làm cho giá cả không ngừng tăng lên và lạm phát xảy ra.
    Đa số các nhà kinh tế có cùng một quan điểm như trên về lạm phát, nhưng tùy theo từng giai đoạn lịch sử và giác độ nghiên cứu khác nhau, giữa họ cũng có những quan điểm khác nhau về nguyên nhân gây ra lạm phát cũng như cách thức để chống lạm phát. Trong đó, đáng chú ý nhất là quan điểm của các nhà kinh tế theo hai trường phái: phái trọng tiền và phái Keynes.
    1.1.1.1 Quan điểm của phái trọng tiền
    Vào thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, các nhà kinh tế cổ điển (điển hình là nhà kinh tế Mỹ Irving Fisher) đã đề xướng ra học thuyết số lượng tiền tệ, theo đó, giữa tổng chi tiêu để mua hàng hoá, dịch vụ được sản xuất ra trong nền kinh tế là PY (trong đó P là mức giá cả, Y là tổng sản phẩm) và lượng tiền tệ M có mối quan hệ với nhau, và được biểu hiện bằng tốc độ chu chuyển của tiền tệ V. Cách tính tốc độ chu chuyển V là bằng tổng chi tiêu, chia cho lượng tiền tệ (V=PY/M). Dựa vào công thức này, các nhà kinh tế đã đưa ra một phương trình trao đổi MV=PY. Với lập luận rằng, trong thời gian
    - 2 -
    ngắn hạn tốc độ V, tổng sản phẩm Y sẽ thay đổi không đáng kể và coi như bất biến, nếu lượng tiền M tăng lên thì giá cả P cũng phải tăng theo. Theo cách lý giải này, bất cứ việc tăng cung tiền nào cũng làm cho giá cả tăng lên, và như vậy để giảm tỷ lệ lạm phát thì biện pháp duy nhất là ngưng việc tăng cung tiền vào trong lưu thông. Rõ ràng, cách lập luận này về lạm phát là quáù đơn giản vì đặt nền kinh tế vào trong một trạng thái tĩnh tại, đó là khi tăng cung tiền thì sẽ dẫn đến một khối lượng tiền nhiều hơn dùng để mua một khối lượng hàng hoá như cũ, do đó sẽ làm cho giá cả tăng lên. Điều này sẽ không lý giải được tại sao giá cả không thay đổi trong trường hợp vẫn tăng cung tiền. Tuy sự nhìn nhận về lạm phát còn đơn giản, nhưng dẫu sao quan điểm trên cũng đã tạo ra một tiền đề cho việc nhận thức về lạm phát sau này của các nhà kinh tế.
    Để khắc phục nhược điểm trên, trong phương trình trao đổi của Irving Fisher, các nhà kinh tế tiền tệ đã nhìn nhận lạm phát dưới trạng thái động hơn thông qua công thức trao đổi tiền tệ cải tiến dưới dạng tỷ lệ, đó là %P = %M + %V - %Y. Theo công thức này, lạm phát xảy ra là do tăng lượng tiền và tăng tốc độ chu chuyển tiền dẫn đến lạm phát. Hay nói cách khác, lạm phát xảy ra là do tăng cung tiền nhanh hơn tốc độ tăng của tổng sản phẩm, và nếu tốc dộ tăng cung tiền bằng với tốc độ tăng của tổng sản phẩm thì lạm phát sẽ không xảy ra. Điều này đã giải thích được việc tăng cung tiền trong một số trường hợp nào đó sẽ không làm cho giá cả tăng lên.
    Như vậy, với cách nhìn mới này các nhà kinh tế cũng có cùng quan điểm với Irving Fisher khi cho rằng tăng cung tiền cũng là nguyên nhân duy nhất gây ra lạm phát. Tuy nhiên để chống lại lạm phát, khác với I.Fisher, họ cho rằng không phải bằng việc ngưng tăng cung tiền mà là duy trì sự phát triển cân đối giữa tăng cung tiền và tăng trưởng kinh tế, điều này sẽ làm cho giá cả được ổn định.
    Một vấn đề liên quan đến biện pháp chống lạm phát này là có thể dẫn đến suy thoái kinh tế kéo dài. Vì kết quả trước tiên của việc giảm tăng cung tiền là sụt giảm trong tổng cầu. Tổng cầu giảm dẫn đến sản lượng giảm và thất nghiệp gia tăng. Hơn nữa, việc giảm cung tiền sẽ làm cho lãi suất tăng lên kéo theo đầu tư giảm. Điều này sẽ làm giảm năng suất và sản lượng của nền kinh tế. Trong dài hạn, giảm cung tiền, sản lượng cũng giảm. Vì thế, để duy trì sự cân đối giữa tiền và hàng hoá chống lại lạm phát đòi hỏi phải cắt giảm cung tiền nhiều hơn, kéo theo sụt giảm sản lượng và suy thoái kinh tế hơn nữa. Nói như vậy, không có nghĩa là việc duy trì mối quan hệ cân đối giữa tăng cung tiền và tăng trưởng là không quan trọng trong việc kiểm soát
    - 3 -
    lạm phát, mà vấn đề là ở chỗ biện pháp chống lạm phát này có thể phải trả giá rất cao.
    1.1.1.2 Quan điểm của phái Keynes
    Để khắc phục những thiếu xót của lý thuyết cổ điển khi cho rằng cung tiền là nguyên nhân duy nhất gây ra lạm phát, John Maynard Keynes đã phát triển một lý thuyết mới về lạm phát. Theo đó, Keynes cho rằng nguyên nhân chủ yếu gây ra lạm phát là do việc tăng nhu cầu quá mức, vượt quá khả năng cung ứng của nền kinh tế, tức vượt quá mức sản lượng tiềm năng (là mức sản lượng đạt tới mức toàn dụng nhân công). Sở dĩ như vậy là vì, khi nền kinh tế chưa đạt tới mức toàn dụng, các doanh nghiệp thường không tăng giá bán để đáp ứng nhu cầu gia tăng, mà thay vào đó họ thường chọn giải pháp gia tăng sản lượng. Khi cầu vượt quá mức sản lượng tiềm năng, các doanh nghiệp không thể tăng sản lượng thêm được nữa vì thế họ buộc phải tăng giá bán, kết quả là lạm phát xảy ra.
    Mặc dù trong phân tích của mình, Keynes cũng thừa nhận rằng việc tăng cung tiền quá mức cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc gây ra lạm phát và trong thời gian dài, cung tiền là nguyên nhân chính gây ra tình trạng siêu lạm phát, đó là việc giá cả tăng nhanh với một tốc độ rất cao. Điều này dễ dàng được nhận thấy trong thực tế khi chính phủ tài trợ cho các khoản chi tiêu của mình bằng việc phát hành tiền giấy quá mức. Song, theo Keynes cung tiền chỉ là một trong nhiều nhân tố làm ảnh hưởng đến tổng cầu mà thôi, do đó, ông nhấn mạnh đến vai trò của tổng cầu hơn là cung tiền trong việc xác định lạm phát. Keynes đã chỉ ra rằng có bốn nhân tố tác động đến tổng cầu, đó là: chi tiêu của hộ gia đình, chi tiêu của chính phủ, chi tiêu đầu tư và cán cân ngoại thương. Do đó, để giảm lạm phát do cầu tăng quá mức cần phải giảm tổng cầu thông qua việc tác động vào các nhân tố này, chẳng hạn như tăng thuế sẽ làm giảm thu nhập khả dụng và do đó làm giảm chi tiêu của hộ gia đình, giảm chi tiêu của chính phủ.
    Với sự phân tích đó, Keynes cũng đưa ra một khái niệm cơ bản thể hiện mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp gọi là đường cong Phillips (Phillips Curve). Theo đó, có một sự đánh đổi giữa việc ổn định giá cả và việc làm. Nếu làm giảm lạm phát sẽ gia tăng thất nghiệp, và ngược lại, gia tăng việc làm sẽ gây áp lực làm cho lạm phát tăng cao. Tuy nhiên, sự đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp trong thực tế là không chắc chắn, thậm chí không xảy ra khi nền kinh tế rơi vào tình trạng lạm phát đình đốn, khi đó lạm phát và gia tăng thất nghiệp cùng xảy ra mà không có một sự đánh đổi nào. Chính vì lý do đó, có nhiều ý kiến tranh luận cho rằng mô hình của Keynes là không đúng.
    - 4 -
    Để lý giải cho trường hợp trên, Keynes và các nhà kinh tế vĩ mô theo trường phái Keynes cho rằng phía cung cũng quan trọng trong việc gây ra lạm phát. Khi có những cú sốc về phía cung như khủng hoảng dầu lửa, đình công đòi tăng lương , làm cho chi phí sản xuất kinh doanh tăng lên buộc các doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất và nâng cao giá bán sản phẩm. Điều này sẽ làm dịch chuyển đường cong Phillips theo hướng suy thoái, nghĩa là nền kinh tế phải điều chỉnh ở mức sản lượng thấp hơn và mức giá cao hơn trước. Quá trình điều chỉnh này hàm ý cả việc lạm phát tăng và gia tăng thất nghiệp, vì thế tình trạng lạm phát đình đốn không mâu thuẫn với mô hình của Keynes.
    Ngoài các lý thuyết trên về lạm phát, các nhà kinh tế vĩ mô hiện đại theo phái Keynes còn cho rằng sự "kỳ vọng" trong tương lai cũng là một nguyên nhân gây ra lạm phát, đó gọi là lạm phát quán tính. Theo lý thuyết này, lạm phát có thể góp phần tạo ra lạm phát hơn nữa nếu mọi người mong đợi điều đó sẽ xảy ra. Đó là vì khi lạm phát xảy ra, người lao động dự kiến lạm phát vẫn tiếp tục tăng trong tương lai, do đó để duy trì "mức lương thực" của mình người lao động yêu cầu được tăng mức lương danh nghĩa lên để bù đắp sự mất giá của đồng tiền. Nếu yêu cầu này được chấp nhận và tiền lương tăng lên sẽ đẩy chi phí tăng. Để duy trì lợi nhuận của mình, doanh nghiệp sẽ chuyển phần chi phí tăng lên này sang cho người tiêu dùng bằng cách tăng giá bán, và như vậy lạm phát sẽ tiếp tục xảy ra. Điều đáng chú ý ở đây là nếu người lao động cho rằng trong tương lai lạm phát xảy ra là thấp thì yêu cầu đòi tăng lương sẽ thấp và có thể không xảy ra, còn nếu người lao động cho rằng lạm phát khó có thể kiềm chế được thì yêu cầu đòi tăng lương sẽ cao. Do vậy việc phát ra những dấu hiệu đáng tin cậy cho thị trường rằng lạm phát sẽ đi xuống và được kiểm soát trong tương lai là rất quan trọng đối việc giảm lạm phát quán tính. Những dấu hiệu này chỉ có thể có được từ việc công bố và thực thi các chính sách đáng tin cậy để kiềm chế lạm phát của chính phủ.
    Như vậy, qua các quan điểm về lạm phát của các nhà kinh tế theo hai trường phái trọng tiền và Keynes đã trình bày ở trên, có thể nhận thấy rằng lạm phát là một hiện tượng kinh tế rất phức tạp vì nó có liên quan đến nhiều vấn đề, nhiều mặt của nền kinh tế, đặc biệt là liên quan đến tiền tệ và giá trị của đồng tiền. Tuy quan điểm của các nhà kinh tế về lạm phát có một số điểm khác nhau, nhưng nhìn chung, đa số họ đều cho rằng biểu hiện bên ngoài của lạm phát là sự gia tăng liên tục của mức giá chung trong nền kinh tế. Mức giá chung là mức giá cả trung bình của tất cả các loại hàng hóa, dịch vụ, vì thế, khi mức giá chung tăng lên không có nghĩa là tất cả các mặt hàng
    - 5 -
    đều tăng giá mà có thể có một số mặt hàng không thay đổi giá hay giảm giá so với trước. Do đó, khi nói đến lạm phát là nói đến sự tăng giá cả hàng hoá trên diện rộng và kéo dài chứ không phải là sự tăng giá của các hàng hoá riêng lẻ, nhất thời. Hơn nữa, giá cả là biểu hiện bằng tiền giá trị của hàng hoá, hay nói cách khác, tiền tệ là thước đo giá trị của hàng hoá, cho nên giá trị của đồng tiền thay đổi cũng làm thay đổi giá cả hàng hoá, chính vì vậy, lạm phát xảy ra suy cho cùng ít nhiều đều liên quan đến chính sách tiền tệ và tài chính quốc gia.
    1.1.2. Mục tiêu và tầm quan trọng của công tác kiểm soát lạm phát
    1.1.2.1 Tác động của lạm phát đối với nền kinh tế
    Về cơ bản, nền kinh tế lạm phát là một tín hiệu không tốt. Duy trì lạm phát sẽ làm giảm dần lợi tức thực của những người có thu nhập thấp, những người hoàn lương hưu và dẫn đến sai lệch trong việc phân phối của cải của xã hội. Tuy nhiên, lịch sử lạm phát đã cho thấy rằng không phải bất cứ lúc nào lạm phát xảy ra cũng là xấu, và cũng không phải ai cũng bị thiệt hại khi nền kinh tế bị lạm phát. Cũng như đa số các hiện tượng kinh tế khác, lạm phát cũng có tính hai mặt của nó là mang lại lợi ích cũng như gây ra thiệt hại đối với nền kinh tế.
    1.1.2.1.1 Tác động tích cực của lạm phát
    Theo lý thuyết kinh tế vĩ mô, khi nền kinh tế chưa đạt đến mức toàn dụng, hay nói cách khác, khi các yếu tố sản xuất như đất đai, lao động, vốn, công nghệ . chưa được khai thác hết thì khi mức giá chung tăng lên sẽ có tác dụng kích thích các doanh nghiệp gia tăng đầu tư để tăng sản lượng hàng hoá cung ứng trên thị trường, làm cho sản xuất được mở rộng. Sản xuất mở rộng sẽ tạo ra được nhiều công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp và tăng thu nhập của người dân. Đầu tư cho sản xuất tăng, thu nhập của người dân tăng sẽ góp phần làm tăng tổng cầu. Tổng cầu tăng lại tạo điều kiện cho sản xuất phát triển. Sản xuất và tiêu dùng liên tục phát triển, mở rộng sẽ góp phần duy trì sự tăng trưởng ổn định của nền kinh tế. Trên giác độ này, lạm phát được xem là một nhân tố kích thích kinh tế phát triển.
    Giá cả chung tăng tạo điều kiện cho sản xuất phát triển, nhưng không phải tất cả các ngành trong nền kinh tế đều phát triển. Giá cả tăng sẽ làm cho các yếu tố sản xuất đầu vào tăng giá, làm tăng chi phí sản xuất. Vì thế, những ngành nào tăng được giá bán thì sẽ tồn tại và phát triển, còn những ngành nào mà giá bán không tăng được, hay thậm chí còn giảm xuống, thì có thể bị thu hẹp dần. Kết quả là vốn đầu tư sẽ chuyển dịch, các ngành kinh tế phát triển được thì sẽ thu hút được nhiều vốn đầu tư, còn các ngành không
    - 6 -
    phát triển được sẽ thu hút được ít vốn đầu tư, hơn nữa vốn đầu tư còn bị rút dần để đầu tư vào những lĩnh vực, ngành nghề khác Điều này sẽ góp phần làm biến đổi cơ cấu nền kinh tế theo hướng có lợi và hiệu quả hơn.
    Giá cả tăng không những góp phần làm thay đổi cơ cấu kinh tế mà còn tạo ra một áp lực cạnh tranh rất lớn trong nền kinh tế ở hầu hết các ngành nghề. Đối với các ngành tăng được giá bán thì áp lực lớn nhất đối với các doanh nghiệp là làm sao để duy trì và phát triển thị phần của mình. Còn những ngành không tăng giá được thì các doanh nghiệp phải chịu áp lực lớn hơn vì vừa phải duy trì thị phần vừa phải cố gắng hạ thấp chi phí để đảm bảo có lợi nhuận. Trong bối cảnh đó, để tồn tại và phát triển buộc các doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, năng lực quản lý, cải tiến chất lượng sản phẩm và hạ giá thành sản phẩm.
    Theo quan niệm của các nhà đầu tư tài chính, lạm phát cũng được xem như là một nhân tố rủi ro tiềm ẩn và là một động cơ cần thiết để đầu tư sinh lợi. Rủi ro này thể hiện ở sự không chắc chắn về giá trị của đồng tiền trong tương lai. Nếu lạm phát tăng thì một đồng ngày hôm nay sẽ có giá trị nhiều hơn một đồng trong lương lai, tức giá trị đồng tiền giảm đi. Giá trị đồng tiền giảm đi theo thời gian như là một thứ thuế đánh trên những người nắm giữ tiền. Điều này sẽ khuyến khích những người nắm giữ tiền sử dụng tiền của mình để đầu tư sinh lợi, chẳng hạn như gửi tiết kiệm, mua chứng khoán, góp vốn kinh doanh nhằm bảo tồn được giá trị thực của tiền và có thể mang lại một giá trị tiền tệ lớn hơn. Kết quả là làm tăng hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế.
    Giá cả tăng lên, đồng tiền bị mất giá, điều này sẽ có lợi cho một số bộ phận trong xã hội dó là: chính phủ, các doanh nghiệp và người vay nợ.
    - Chính phủ là người hưởng lợi trước tiên từ lạm phát. Giá cả tăng sẽ làm tăng thu nhập của nhà sản xuất, và vì thế mức lương của người lao động cũng tăng theo. Khi thu nhập của xã hội tăng thì thuế trả cho Nhà nước cũng tăng. Trong khi đó các khoản chi trả lương, trợ cấp hưu trí của Nhà nước thường mang tính ổn định trong một thời gian dài, hoặc nếu thay đổi cũng không bằng nguồn thu tăng thêm vào ngân sách do tăng giá, cho nên Nhà nước vẫn được lợi từ lạm phát. Hơn nữa, chính phủ thường là chủ nợ lớn nhất trong xã hội dưới dạng các tài sản tài chính như trái phiếu chính phủ, lạm phát sẽ làm cho phần lãi suất thực mà chính phủ chi trả cho các khoản nợ bằng tiền trong nước sẽ giảm đi. Và nếu lạm phát xảy ra là do phát hành tiền thì chính phủ càng được lợi hơn nữa, vì năng lực mua sắm của những đồng tiền hiện có sẽ bị sụt giảm và chuyển dịch vào những đồng tiền phát hành mới. Như vậy, rõ ràng chính phủ sẽ rất có lợi vì chỉ cần bỏ ra một ít chi phí
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...