Luận Văn Một số giải pháp nhằm hoàn thiện nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng Công thương Cầu Giấy

Thảo luận trong 'Ngân Hàng' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Một số giải pháp nhằm hoàn thiện nghiệp vụ bảo lãnh tại
    Ngân hàng Công thương Cầu Giấy


    ​CHƯƠNG I.<br>
    NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO LÃNH NGÂN HÀNG <br>
    1.1. KHÁI NIỆM: <br>
    Bảo lãnh là một khái niệm có từ rất xa xưa trong xã hội loài người. Cho đến nay, bảo lãnh không những tồn tại mà còn phát triển rất phong phú và bao trùm lên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế – chính trị – xã hội của mỗi quốc gia. Vậy bảo lãnh là gì?<br>
    Bảo lãnh là sự nhận cam kết của người nhận bảo lãnh sẽ thực hiện đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ nếu người xin bảo lãnh không thực hiện những cam kết đó đối với người thụ hưởng bảo lãnh. Bảo lãnh cần thiết khi hai bên tham gia vào một mối quan hệ kinh tế, chính trị hay xã hội còn chưa tín nhiệm nhau. Uy tín và lời hứa của bên này chưa đủ tin cậy đối với bên kia nhưng bên kia cũng không đủ khả năng về thời gian; Chi phí và kỹ thuật nghiệp vụ để đánh giá về bên kia. Lúc đó sự xuất hiện của bên thứ 3 có đủ độ tin cậy đối với cả hai bên thực hiện bảo lãnh sẽ là cầu nối giữa hai bên, đưa họ đến một quan điểm thống nhất.<br>
    Từ khái niệm trên, ta thấy rõ hai đặc tính cơ bản của bảo lãnh:<br>
    Trong hoạt động bảo lãnh luôn có ba bên tham gia: Người thụ hưởng bảo lãnh; Người xin bảo lãnh và người nhận bảo lãnh.<br>
    Trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ trước tiên thuộc về người xin bảo lãnh. Người nhận bảo lãnh chỉ thực hiện các nghĩa vụ đó trong trường hợp người xin bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình. <br>
    Bảo lãnh có rất nhiều hình thức. Căn cứ vào chủ thể bảo lãnh có thể chia thành:<br>
    Bảo lãnh của một tổ chức quốc tế với một chính phủ.<br>
    Bảo lãnh của nhà nước đối với một tổ chức quốc tế.<br>
    Bảo lãnh của Công ty lớn đối với Công ty con.<br>
    Bảo lãnh của Ngân hàng đối với Ngân hàng.<br>
    <br>
    <br>
    Như vậy, xét trong phạm vi chung của xã hội thì bảo lãnh rất đa dạng. Riêng bảo lãnh ngân hàng bắt đầu được sử dụng rộng rãi từ đầu thập niên 70. Sự phát triển nhanh chóng của các nước sản xuất dầu hoả ở Trung Đông trong thời gian này đã cho phép họ mở rộng quan hệ ngoại thương, tham gia ký kết nhiều hợp đồng lớn với các đối tác ở Phương Tây về những dự án lớn như cải thiện cơ sở hạ tầng, các công trình công cộng, các dự án công, nông nghiệp và quốc phòng Do đó, có thể nói đây là khu vực phát sinh đầu tiên của hoạt động bảo lãnh ngân hàng. Với sự phát triển của thương mại quốc tế, các giao dịch ngày càng mang tính toàn cầu. Tầm cỡ và sự phức tạp của các giao dịch đòi hỏi và cũng là động lực thúc đẩy sự phát triển của bảo lãnh ngân hàng.<br>
    Bảo lãnh ngân hàng là cam kết cảu ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng khi khách hàng không thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ đã thoả thuận với bên yêu cầu bảo lãnh, được quy định cụ thể tại thư bảo lãnh của ngân hàng.<br>
    Bảo lãnh ngân hàng có một số đặc tính hết sức quan trọng đó là tính độc lập với hợp đồng. Mặc dù mục đích của bảo lãnh ngân hàng là bồi hoàn cho người thụ hưởng những thiệt hại từ việc không thực hiện hợp đồng của người được bảo lãnh trong quan hệ hợp đồng nhưng việc thanh toán một bảo lãnh chỉ hoàn toàn căn cứ vào các điều khoản và các điều kiện như được quy định trong thư bảo lãnh và ngân hàng không thể dựa vào những quyền kháng nghị có được từ quan hệ hợp đồng. Như vậy, một khi các điều khoản và điều kiện của bảo lãnh được đáp ứng thì về mặt pháp lý, người thụ hưởng có quyền yêu cầu thanh toán tiền mà không cần thiết phải chứng minh các vi phạm của người được bảo lãnh mà chỉ cần lập chứng từ như yêu cầu của bảo lãnh.<br>
    Tuy nhiên, tính độc lập của bảo lãnh là phụ thuộc vào chính các điều kiện của bảo lãnh. Nếu bảo lãnh quy định việc thanh toán là theo văn bản yêu cầu của người thụ hưởng thì người thụ hưởng có quyền yêu cầu thanh toán mà không cần một điều kiện nào, ngân hàng phát hành phải thanh toán và người được bảo lãnh sẽ bồi hoàn lại cho ngân hàng phát hành. Mặt khác, bảo lãnh yêu cầu một chứng từ như: Phán quyết của toà án, một quyết định của trọng tài, văn bản của bên thứ ba xác nhận sự vi phạm của người được bảo lãnh hay văn bản của người được bảo lãnh hay văn bản của người được bảo lãnh thừa nhận sự vi phạm của mình thì tính độc lập của bảo lãnh ít nhiều bị giảm đi.<br>
    Tính độc lập còn thể hiện ở trách nhiệm thanh toán của ngân hàng phát hành. Trách nhiệm này hoàn toàn độc lập với mối quan hệ giữa ngân hàng phát hành với người được bảo lãnh. Nếu như chứng từ hoàn toàn phù hợp thì ngân hàng không thể từ chối thanh toán vì bất cứ lý do gì nảy sinh trong quan hệ giữa họ và người được bảo lãnh, những lý do như: Người được bảo lãnh phá sản, người được bảo lãnh vẫn còn nợ ngân hàng <br>
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...