Tài liệu Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh chương trình xoá đói giảm nghèo tại Yên Bá

Thảo luận trong 'Nông - Lâm - Ngư' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    ĐỀ TÀI: Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh chương trình xoá đói giảm nghèo tại Yên Bái

    Lời nói đầu

    Đói nghèo là một vấn đề mang tính chất toàn cầu. Nó không chỉ là một thực tế đang diễn ra ở nước ta mà c̣n là một tồn tại phổ biến trên toàn thế giới và trong khu vực. Ngay cả những nước phát triển cao, vẫn c̣n một bộ phận dân cư sống ở mức nghèo khổ. Vào những năm cuối của thế kỷ 21 trên toàn thế giới vẫn c̣n hơn 1,3 tỷ người sống dưới mức nghèo khổ, trong đó khoảng 800 triệu người sống ở các quốc gia thuộc khu vực châu Á -Thái b́nh dương. Đây là một trở ngại trầm trọng, một thách thức đối với sự phát triển của các nước trên thế giới. tuy nhiên mức độ và tỷ lệ dân cư nghèo đói là rất khác nhau giữa các nước, các khu vực. Nó phản ánh sự khác nhau về tŕnh độ phát triển của các quốc gia trước hết là tŕnh độ phát triển của nền kinh tế.
    Việt Nam là một trong những nước nghèo nhất thế giới, với gần 80% dân cư sống ở khu vực nông nghiệp và 70% lực lượng lao động làm trong lĩnh vực nông nghiệp. Do sự phát triển chậm của lực lượng sản xuất, sự lạc hậu về kinh tế và tŕnh độ phân công lao động xă hội kém, dẫn tới năng suất lao động xă hội và mức tăng trưởng xă hội thấp. Với chủ trương phát triển một nền kinh tế thị truờng theo định hướng XHCN có sự điều tiết của Nhà Nước th́ đây vừa là một nhiệm vụ chiến lược của công cuộc phát triển KT-XH, vừa là phương tiện để đạt được mục tiêu Dân giàu, nước mạnh, xă hội công bằng văn minh. Muốn đạt được mục tiêu này th́ trước hết phải xoá bỏ đói nghèo và lạc hậu. Đây là một trách nhiệm hết sức nặng nề của Đảng và Nhà Nước ta, bởi Nhà Nước không chỉ bảo đảm nhu cầu tối thiểu cho dân mà c̣n xoà bỏ tận gốc các nguyên nhân gây ra đói nghèo trong dân cư. Để tập trung các nguồn lực và triển khai đồng bộ, thống nhất và hiệu quả các giải pháp, chính sách xoá đói giảm nghèo phải trở thành chương tŕnh mục tiêu quốc gia phù hợp với định hướng phát triển kinh tế xă hội của đất nước, nhằm hỗ trợ trực tiếp các xă nghèo, hộ nghèo các điều kiện cần thiết để phát triển sản xuất, tăng thu nhập, ổn định đời sống, tự vươn lên thoát khỏi đói nghèo, v́ vậy mà Đại hội 8 của Đảng đă xác định Xoá đói giảm nghèo là một trong những chương tŕnh phát triển kinh tế xă hội vùa cấp bách trước mắt, vừa cơ bản lâu dài. Do vậy mà tháng7.1998 thủ tướng chính phủ đă phê duyệt và triển khai chương tŕnh mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo giai đoạn 1998-2000 và 2001-2005. Thực hiện chủ trương và đường lối của Đảng và Nhà Nước về phát triển kinh tế xă hội và xoá đói giảm nghèo th́ cho đến nay tất cả các tỉnh, thành trong cả nước đă xây dựng chương tŕnh xoá đói giảm nghèo phù hợp với điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế xă hội của từng địa phương, từng khu vực nhằm xoá đói giảm nghèo và lạc hậu góp phần tích cực vào công cuộc cải cách nền kinh tế.
    Yên Bái là một tỉnh nghèo miền núi phía bắc của tổ quốc với diện tích tự nhiên 6807km[SUP]2[/SUP], tổng dân số gần 68 vạn (theo số liệu điều tra ngày 1.4.1999) gồm 30 dân tộc chung sống tỷ lệ hộ đói nghèo là19,42%( theo kết quả điều tra ngày 31.12.2000), điều kiện tự nhiên khắc nghiệt tŕnh độ dân trí thấp, việc chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân c̣n kém, tốc độ tăng dân số c̣n cao cá biệt có nơi c̣n gần 4%, điều kiện cơ sở vật chất hạ tầng như: điện sinh hoạt, đường giao thông, trường học, trạm ytế, chợ . c̣n thiếu và yếu kém. Những yếu kém trên đă làm cho nền kinh tế của tỉnh chậm phát triển, sản xuất chủ yếu là tự cung tự cấp. Do vậy xoá đói giảm nghèo được coi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong công cuộc phát triển kinh tế xă hội của tỉnh Yên Bái nói riêng và của cả nước nói chung. Điều này đă được cụ thể bằng nghị quyết đại hội tỉnh Đảng bộ Yên Bái lần thứ 14 năm 1996 và quyết định số 53/QĐ-UB của UBND tỉnh ngày 6.5.1999 về phê duyệt chương tŕnh xoá đói giảm nghèo giai đoạn 1999-2005 . Với quyết tâm của Tỉnh uỷ, HĐND, UBND, các tổ chức đoàn thể và nhân dân toàn tỉnh th́ chương tŕnh xoá đói giảm nghèo của tỉnh Yên Bái sẽ có những thành công đáng kể trong thời gian tới và đưa Yên Bái hoà nhập vào sự phát triển chung của đất nước.
    Tuy nhiên trong quá tŕnh thực hiện chương tŕnh xoá đói giảm nghèo th́ tỉnh Yên Bái c̣n hiều gặp 1 số khó khăn cần tháo gỡ như: Hiệu quả của các dự án chưa cao, tỷ lệ hộ đói nghèo c̣n lớn hơn so với trung b́nh của cả nước. V́ vậy để thực hiện được mục tiêu: Giảm tỷ lệ hộ đói nghèo xuống c̣n 6% vào năm 2005 và không c̣n xă nghèo th́ Đảng bộ tỉnh Yên Bái c̣n nhiều việc phải làm. Cho nên Em đă lựa chọn đề tài thực tập Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh chương tŕnh xoá đói giảm nghèo tại Yên Bái.
    Em xin trân thành cảm ơn cô giáo TS Nguyễn Thị Ngọc Huyền, chuyên viên Trần B́nh Minh và các cô chú pḥng bảo trợ xă hội thuộc sở lao động thương binh xă hội tỉnh Yên Bái đă hết ḷng giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề thực tập này.













    CHƯƠNGI: NHỮNG LƯ LUẬN CHUNG VỀ ĐÓI NGHÈO VÀ XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO.

    I ĐÓI NGHÈO VÀ XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO.
    1. Những quan niệm chung về đói nghèo
    Đói nghèo là một hiện tượng kinh tế xă hội mang tính chất toàn cầu. Nó không chỉ tồn tại ở các quốc gia có nền kinh tế kém phát triển, mà nó c̣n tồn tại ngay tại các quốc gia có nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên tuỳ thuộc vào điều kiện tự nhiên, thể chế chính trị xă hội và điều kiện kinh tế của mỗi quốc gia mà tính chất, mức độ nghèo đói của từng quốc gia có khác nhau. Nh́n chung mỗi quốc gia đều sử dụng một khái niệm để xác định mức độ nghèo khổ và đưa ra các chỉ số nghèo khổ để xác định giới hạn nghèo khổ. Giới hạn nghèo khổ của các quốc gia được xác định bằng mức thu nhập tối thiểu để người dân có thể tồn tại được, đó là mức thu nhập mà một hộ gia đ́nh có thể mua sắm được những vật dụng cơ bản phục vụ cho việc ăn, mặc, ở và các nhu cầu thiết yếu khác theo mức giá hiện hành.
    Tại hội nghị bàn về xoá đói giảm nghèo do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc Thái Lan tháng 9.1993 đă đưa ra khái niệm về nghèo đói như sau: Đói nghèo là t́nh trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả măn những nhu cầu cơ bản của con người đă được xă hội thừa nhận tuỳ theo tŕnh độ phát triển kinh tế xă hội và phong tục tập quán của các địa phương. Theo định nghĩa này th́ mức độ nghèo đói ở các nước khác nhau là khác nhau. Theo số liêu của ngân hàng thế giới th́ hiện nay trên thế giới có khoảng 1,3 tỷ người sống dưới mức nghèo khổ, trong đó phần lớn là phụ nữ và trẻ em.
    1.2 Khái niệm về đói nghèo ở Việt Nam.
    Ở nước ta căn cứ vào t́nh h́nh kinh tế xă hội và mức thu nhập của nhân dân trong những năm qua th́ khái niệm đói nghèo được xác định như sau:
    a. Nghèo là t́nh trạng một bộ phận dân cư chỉ có những điều kiện thoả măn những nhu cầu tối thiểu và cơ bản nhất trong cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức sống của cộng đồng xét trên mọi phương diện.
    Một cách hiểu khác: Nghèo là một bộ phận dân cư có mức sống dưới ngưỡng quy định của sự nghèo. Nhưng ngưỡng nghèo c̣n phụ thuộc vào đặc điểm cụ thể của từng địa phương, từng thời kỳ cụ thể hay từng giai đoạn phát triển kinh tế xă hội cụ thể của từng địa phương hay từng quốc gia.
    Ở Việt Nam th́ nghèo được chia thành các mức khác nhau: nghèo tuyệt đối, nghèo tương đối, nghèo có nhu cầu tối thiểu.
    - Nghèo tuyệt đối: Là t́nh trạng một bộ phận dân cư thuộc diện nghèo không có khả năng thoả măn nhu cầu tối thiểu của cuộc sống: ăn, mặc, ở, đi lại .
    - Nghèo tương đối: là t́nh trạng một bộ phận dân cư thuộc diện nghèo có mức sống dưới mức sống trung b́nh của cộng đồng và địa phương đang xét.
    - Nghèo có nhu cầu tối thiểu: Đây là t́nh trạng một bộ phận dân cư có những đảm bảo tối thiểu để duy tŕ cuộc sống như đủ ăn, đủ mặc, đủ ở và một số sinh hoạt hàng ngày nhưng ở mức tối thiểu.
    - Khái niệm về hộ đói: Hộ đói là một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức tối thiểu không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy tŕ cuộc sống hay nói cách khác đó là một bộ phận dân cư hàng năm thiếu ăn, đứt bữa, thường xuyên phải vay nợ và thiếu khả năng trả nợ.
    - Khái niệm về hộ nghèo: Hộ nghèo là t́nh trạng của một số hộ gia đ́nh chỉ thoả măn một phần nhu cầu tối thiểu của cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức sống trung b́nh của cộng đồng xét trên mọi phương diện.
    Ngoài ra c̣n có khái niệm xă nghèo và vùng nghèo.
    * Xă nghèo là xă có những đặc trưng như sau:
    - Tỷ lệ hộ nghèo cao hơn 40% số hộ của xă.
    - Không có hoặc thiếu rất nhiều những công tŕnh cơ sở hạ tầng như: Điện sinh hoạt, đường giao thông, trường học, trạm ytế và nước sinh hoạt.
    - Tŕnh độ dân trí thấp, tỷ lệ người mù chữ cao.
    * Khái niệm về vùng nghèo:
    Vùng nghèo là chỉ địa bàn tương đối rộng có thể là một số xă liền kề nhau hoặc một vùng dân cư nằm ở vị trí rất khó khăn hiểm trở, giao thông không thuận tiện, cơ sở hạ tầng thiếu thốn, không có điều kiện phát triển sản xuất đảm bảo cuộc sống và là vùng có số hộ nghèo và xă nghèo cao.
    2. Chuẩn mực về đói nghèo ở Việt Nam và Trên thế giới
    Ở Mỗi thời kỳ phát triển của nền kinh tế đều phải đưa ra một chuẩn mực riêng, để xác định mức đói nghèo cho phù hợp với mức thu nhập b́nh quân chung của dân chúng trong từng giai đoạn khác nhau.
    2.1 Chuẩn mực đói nghèo của 1 số nước trên thế giới.
    Theo ngân hàng thế giới (WB), từ những năm 80 cho đến nay chuẩn mực để xác định gianh giới giữa người giàu với người nghèo ở các nước đang phát triển và các nước ở khu vực ASEAN được xác định bằng mức chi phí lương thực, thực phẩm cần thiết để duy tŕ cuộc sống với mức tiêu dùng nhiệt lượng từ 2100 - 2300 calo/ngày/người hoặc mức thu nhập b́nh quân tính ra tiền là 370USD/người/năm.
    * Ở Ên Độ: Lấy tiêu chuẩn là 2250 calo/người/ngày.
    * BănglaĐesh lấy tiêu chuẩn là 2100 calo/người/ngày.
    * Ở INĐÔNÊXIA: Vào đầu những năm 80 lấy mức tiêu dùng nhiệt lượng là2100calo/người/ngày làm mức chuẩn để xác định gianh giới giữa giàu với nghèo.
    * Ở Trung Quốc: năm 1990 lấy mức tiêu dùng là 2150calo/người/ngày.
    * Các nước công nghiệp phát triển châu âu: 2570 calo/người/ngày.
    2.2 Ở Việt Nam : Năm 1993 theo Tổng cục thống kê lấy mức tiêu dùng là 2100 calo nếu quy đổi tương đương với lượng tiêu dùng lương thực, thực phẩm theo giá phù hợp với từng thời điểm, từng địa phương th́ người dân Việt nam phải có mức thu nhập b́nh quân tối thiểu là 50000đồng/người/tháng ở vùng nông thôn và 70000 đồng đối với khu vực thành thị, để làm gianh giới xác định giữa người giàu và người nghèo.
    Theo cách t́nh này th́ mức thu nhập b́nh quân đầu người ở các hộ khu vực nông thôn nước ta được quy ra tiền để xác định gianh giới giữa những hộ giàu và hộ nghèo như sau:
    - Loại hộ nghèo: có mức thu nhập b́nh quân dưới 50000/người/tháng. Hộ đói dưới 30000/người/tháng.
    -Loại hộ dưới trung b́nh: có thu nhập b́nh quân từ 50000-70000/người/tháng.
    -Loại hé trung b́nh: có mức thu nhập b́nh quân đầu người từ 70000-12500/người/tháng.
    -Loại hộ trên trung b́nh: có mức thu nhập b́nh quân từ 125000-250000/người/tháng.
    - Loại hộ giàu:có thu nhập từ 250000/người/tháng trở lên.
    Sau 1 thời gian căn cứ vào tŕnh độ phát triển của nền kinh tế th́ tại thông báo số1751/LĐ-TB&XH của bộ LĐ-TB&XH ngày20.5.1997 th́ chuẩn mực về đói nghèo được quy định lại như sau:
    + Hộ đói: là hộ có mức thu nhập b́nh quân theo đầu người dưới 13 kg gạo/tháng tương đương 45000/tháng đối với tất cả các vùng.
    + Hộ nghèo: là hộ có mức thu nhập b́nh quân đầu người 15kg gạo/người/tháng tương đương 55000 ở khu vực nông thôn, miền núi.
    -20kg gạo/người/tháng dối với khu vực nông thôn đồng bằng và trung du.
    - 25kg gạo/người/tháng đối với khu vực thành thị.
    Tại quyết định số 1143/2000 QĐLĐTBXH ngày 1.11.2000 của bộ trưởng bộ LĐ-TBXH đă phê duyệt chuẩn mức đói nghèo mới giai đoạn 2001-2005 theo mức thu nhập b́nh quân đâu người cho từng vùng cụ thể như sau:
    - Vùng nông thôn miền núi hải đảo: 80000 đồng/người/tháng tương đương 960000 đồng/năm.
    - Vùng nông thôn đồng bằng: 100000 đồng/người/tháng tương đương 1200000 đồng/năm.
    - Vùng thành thị: 150000 đồng/người/tháng tương đương 1800000/năm.
    Theo tiêu chuẩn này th́ tính đến năm 2000, cả nước có khoảng 4 triệu hộ nghèo, chiếm tỷ lệ từ 24-25% tổng số hộ trong cả nước. Trong đó 4 vùng có tỷ lệ đói nghèo trên 30%. Ước tính tỷ lệ hộ đói nghèo ở các vùng như sau:

    [TABLE]
    [TR]
    [TD]Vùng[/TD]
    [TD]Số hộ nghèo (1000hé)[/TD]
    [TD]Tỷ lệ hộ nghèo (%)[/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Miền núi phía Bắc[/TD]
    [TD]923,3[/TD]
    [TD]34.1[/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Đồng bằng sông hồng[/TD]
    [TD]482.1[/TD]
    [TD]14[/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Bắc trung bé[/TD]
    [TD]833.8[/TD]
    [TD]38.6[/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Duyên hải miền trung[/TD]
    [TD]555.7[/TD]
    [TD]31.9[/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Tây Nguyên[/TD]
    [TD]257.5[/TD]
    [TD]36.1[/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Đông nam bé[/TD]
    [TD]261.4[/TD]
    [TD]12.8[/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Đồng bằng sông cửu Long[/TD]
    [TD]686.2[/TD]
    [TD]20.3[/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]

    Đặc biệt, tỷ lệ hộ đói nghèo ở các xă miền núi, vùng sâu và vùng xa tỷ lệ này c̣n cao hơn mức trung b́nh của cả nước: Bắc trung Bé 38,6%; Tây nguyên 36,1%; Miền núi phía bắc34,1%; Duyên hải miền trung 31,9% .
    Chuẩn mực đói nghèo là một khái niệm động, phụ thuộc vào phương pháp tiếp cận điều kiện kinh tế và thời gian quy định.
    3.Nguyên nhân đói ngh̀o của Việt nam và thế giới.
    3.1 Trên thế giới:
    Có nhiều ư kiến khác nhau xung quanh việc xác định nguyên nhân của đói nghèo. Trên thực tế không có một nguyên nhân biệt lập, riêng rẽ dẫn tới đói nghèo nhất là đói nghèo trên diện rộng, có tính chất xă hội. Nó cũng không phải là nguyên nhân thuần tuư về mặt kinh tế hoặc do thiên tai địch hoạ. Ở đây nguyên nhân của t́nh trạng đói nghèo là có sự đan xen, thâm nhập vào nhau của cái tất yếu lẫn cái ngẫu nhiên, cái cơ bản và cái tức thời, cả nguyên nhân sâu xa lẫn nguyên nhân trực tiếp, tự nhiên lẫn kinh tế -xă hội .
    Tóm lại nguyên nhân đói nghèo trên thế giới bao gồm những nguyên nhân chủ yếu sau:
    - Sự khác nhau về của cải (những chênh lệch lớn nhất trong thu nhập là do những sự khác nhau về sở hữu tài sản).
    - Sù khác nhau về khả năng cá nhân
    - Sự khác nhau về giáo dục đào tạo.
    Và 1 số nguyên nhân khác như: Chiến tranh, thiên tai địch hoạ, rủi ro .
    3.2Nguyên nhân của đói nghèo ở Việt Nam .
    Ở Việt nam nguyên nhân chính gây ra đói nghèo có thể phân theo 3 nhóm:
    -Nhăm nguyên nhân điều kiện tự nhiên: khí hậu khắc nghiệt, thiên tai, băo lụt, hạn hán, sâu bệnh, đất đai cằn cỗi, địa h́nh phức tạp, giao thông khó khăn đă và đang ḱm hăm sản xuất, gây ra t́nh trạng đói nghèo cho cả một vùng, khu vực.
    - Nhóm nguyên nhân chủ quan của người nghèo: thiếu kiến thức làm ăn, thiếu vốn, đông con, thiếu lao động, không có việc làm, mắc các tệ nạn xă hội, lười lao động, ốm đau, rủi ro .
    - Nhóm các nguyên nhân thuộc về cơ chế chính sách: Thiếu hoặc không đồng bộ về chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các khu vực khó khăn, chính sách khuyến khích sản xuất, vốn tín dụng, hướng dẫn cách làm ăn, khuyến nông,lâm, ngư,chính sách trong giáo dục đào tạo, ytế, giải quyết đất đai, định canh định cư, kinh tế mới và nguồn lực đầu tư c̣n hạn chế.
    Kết quả điều tra về xă hội học cho thấy:
    - Thiếu vốn: 70-90% tổng số hộ được điều tra.
    - Đông con: 50-60% tổng số hộ được điều tra.
    - Rủi ro, ốm đau: 10-15% tổng số hộ được điều tra.
    - Thiếu kinh nghiệm làm ăn: 40-50% tổng số hộ được điều tra.
    - Neo đơn, thiếu lao động: 6-15% tổng số hộ được điều tra.
    - Lười lao động, ăn chơi hoang phí: 5-6% tổng số hộ được điều tra.
    - Mắc tệ nạn xă hội: 2-3% tổng số hộ được điều tra.

    4. Sự cần thiết của công tác xoá đói giảm nghèo .
    Xét t́nh h́nh thực tế, khi nước ta bước vào thời kỳ đổi mới th́ sự phân hoà giàu nghèo diễn ra rất nhanh nếu không tích cực xoá đói giảm nghèo và giải quyết tốt các vấn đề xă hội khác th́ khó có thể đạt được mục tiêu xây dựng một cuộc sống Êm no về vật chất, tốt đẹp về tinh thần, vừa phát huy được truyền thống tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu được yếu tố lành mạnh và tiến bộ của thời đại.
    Do đó trong chính sách phát triển kinh tế -xă hội thời kỳ 1996-2000 nhà nước đă xây dựng được các chương tŕnh mục tiêu quốc gia, trong đó có chương tŕnh xoá đói giảm nghèo quốc gia. Xoá đói giảm nghèo không chỉ là vấn đề kinh tế đơn thuần, mà nó c̣n là vấn đề kinh tế -xă hội quan trọng, do đó phải có sự chỉ đạo thống nhất giữa chính sách kinh tế với chính sách xă hội.
    Xuất phát từ điều kiện thực tế nước ta hiện nay, xoá đói giảm nghèo về kinh tế là điều kiện tiên quyết để xoá đói giảm nghèo về văn hoá, xă hội .V́ vậy, phải tiến hànhthực hiện xoá đói giảm nghèo cho các hộ nông dân sinh sống ở vùng cao, vùng sâu, hải đảo và những vùng căn cứ kháng chiến cách mạng cũ, nhằm phá vỡ thế sản xuất tự cung, tự cấp, độc canh, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế sản xuất nông nghiệp trên toàn quốc theo hướng sản xuất hàng hoá, phát triển công nghiệp nông thôn, mở rộng thị trường nông thôn, tạo việc làm tại chỗ, thu hót lao đông ở nông thôn vào sản xuát tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ là con đường cơ bản để xoá đói giảm nghèo ở nông thôn. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn phải được xem như là 1 giải pháp hữu hiệu, tạo bước ngoạt cho phát triển ở nông thôn, nhằm xoá đói giảm nghèo ở nông thôn nước ta hiện nay.
    Tiếp tục đổi mới nền kinh tế theo hướng sản xuất hàng hoá trên cơ sở nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Đó là con đường để cho mọi người vượt qua đói nghèo, để nhà nước có thêm tiềm lực về kinh tế để chủ động xoá đói giảm nghèo. Đây là sự thể hiện tư tưởng kinh tế của Hồ Chủ Tịch: Giúp đỡ người vươn lên khá, ai khá vươn lên giàu, ai giàu th́ vươn lên giàu thêm.Thực hiện thành công chương tŕnh xoá đói giảm nghèo không chỉ đem lại ư nghĩa về mặt kinh tế là tạo thêm thu nhập chính đáng cho người nông dân ổn định cuộc sống lâu dài, mà xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế nông thôn c̣n là nền tảng, là cơ sở để cho sự tăng trưởng và phát triển 1 nền kinh tế bền vững, góp phần vào sự nghiệp đổi mới đất nước. Hơn thế nữa nó c̣n có ư nghĩa to lớn về mặt chính trị xă hội. Xoá đói giảm nghèo nhằm nâng cao tŕnh độ dân trí, chăn sóc tốt sức khoẻ nhân dân, giúp họ có thể tự ḿnh vươn lên trong cuộc sống, sớm hoà nhập vào cuộc sống cộng đồng, xây dựng được các mối quan hệ xă hội lành mạnh, giảm được khoảng trống ngăn cách giữa người giàu với người nghèo, ổn định tinh thần, có niềm tin vào bản thân, từ đó có ḷng tin vào đường lối và chủ trương của đảng và Nhà nước. Đồng thời hạn chế và xoá bỏ được các tệ nạn xă hội khác, bảo vệ môi trường sinh thái.
    Ngoài ra c̣n có thể nói rằng không giải quyết thành công các nhiệm vụ và yêu cầu xoá đói giảm nghèo th́ sẽ không chủ động giải quyết được xu hướng gia tăng phân hoá giàu nghèo, có nguy cơ đẩy tới phân hoá giai cấp với hậu quả là sự bần cùng hoá và do vậy sẽ đe doạ t́nh h́nh ổn định chính trị và xă hội làm chệch hướng XHCN của sự phát triển kinh tế -xă hội. Không giải quyết thành công các chương ttŕnh xoá đói giảm nghèo sẽ không thể thực hiện được công bằng xă hội và sự lành mạnh xă hội nói chung. Như thế mục tiêu phát triển và phát triển bền vững sẽ không thể thực hiện được. Không tập trung nỗ lực, khả năng và điều kiện để xoá đói giảm nghèo sẽ không thể tạo được tiền đề để khai thác và phát triển nguồn lực con người phục vụ cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước nhằm đưa nước ta đạt tới ttŕnh độ phát triển tương đương với quốc tế và khu vực, tháo khỏi nguy cơ lạc hậu và tụt hậu.
    5. Những kết quả xoá đói giảm nghèo trên thế giới và bài học kinh nghiệm.
    Một thực tế cho thấy rằng hầu hết những người nghèo đều tập trung ở khu vực nông thôn, bởi v́ đây là khu vực hết sức khó khăn về mọi mặt như: điện, nước sinh hoạt, đường, trạm ytế . ở các nước đang phát triển với nền kinh tế sản xuất là chủ yếu th́ sự thành công của chương tŕnh xoá đói giảm nghèo phụ thuộc vào chính sách của Nhà nước đối với chương tŕnh phát triển nông nghiệp và nông thôn của các quốc gia. Thực tế cho thấy rằng các con rồng châu á như: Hàn quốc, Singapo, Đài loan; các nước ASEAN và Trung quốc đều rất chú ư đến phát triển nông nghiệp và nông thôn. Xem nó không những là nhiệm vụ xây dựng nền móng cho quá tŕnh CNH-HĐH, mà c̣n là sự đảm bảo cho phát triển bền vững của nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên không phải nước nao c̣ng ngay từ đầu và trong suốt quá tŕnh vật lộn để trở thành các con rồng đều thực hiện sự phát triển cân đối , hợp lư ở từng giai đoạn, từng thời kỳ giữa công nghiệp với nông nghiệp. Dưới đây là kết quả và bài học kinh nghiệm của 1 số nước trên thế giới.
    5.1 Hàn quốc.
    Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, chính phủ Hàn Quốc không chú ư đến việc phát triển nông nghiệp nông thôn mà đi vào tập trung phát triển ở các vùng đô thị, xây dựng các khu công nghiệp tập trung ở các thành phố lớn, thế nhưng 60% dân số Hàn Quốc sống ở khu vực nông thôn, cuộc sống nghèo đói, tuyệt đại đa số là tá điền, ruộng đất tập trung vào sở hữu của giai cấp địa chủ, nhân dân sống trong cảnh nghèo đói tột cùng. Từ đó gây ra làn sóng di dân tự do từ nông thôn vào thành thị để kiếm việc làm, chính phủ không thể kiểm soát nổi, gây nên t́nh trạng mất ổn định chính trị -xă hội. Để ổn định t́nh h́nh chính trị -xă hội, chính phủ Hàn Quốc buộc phải xem xét lại các chính sách kinh tế -xă hội của ḿnh, cuối cùng đă phải chú ư đến việc điều chỉnh các chính sách về phát triển kinh tế -xă hội ở khu vực nông thôn và một chương tŕnh phát triển nông nghiệp nông thôn được ra đời gồm 4 nội dung cơ bản:
    - Mở rộng hệ thống tín dụng nông thôn bằng cách tăng số tiền cho hộ nông dân vay.
    - Nhà nước thu mua ngũ cốc của nông dân với giá cao.
    - Thay giống lúa mới có năng suất cao.
    - Khuyến khích xây dựng cộng đồng mới ở nông thôn bằng việc thành lập các HTX sản xuất và các đội ngũ lao động để sửa chữa đường xá, cầu cống và nâng cấp nhà ở.
    Với những nội dung này, chính phủ Hàn Quốc đă phần nào giúp nhân dâncó việc làm, ổn định cuộc sống, giảm bớt t́nh trạng di dẩna các thành phố lớn dể kiếm việc làm. chính sách này đă được thể hiện thông qua kế hoạch 10 năm cải tiến cơ cấu nông thôn nhằm cải tiến cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp, từng bước đưa nền kinh tế phát triển nhằm xoá đói giảm nghèo cho dân chúng ở khu vực nông thôn.
    Tóm lại: Hàn Quốc đă trở thành 1 nước công nghiệp phát triển nhưng chính phủ vẫn coi trọng những chính sách có liên quan đến việc phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn nhằm xoá đói giảm nghèo cho dân chúng ở khu vực nông thôn, có như vậy mới xoá đói giảm nghèo cho nhân dân tạo thế ổn định và bền vững cho nền kinh tế .
    5.2 Đài Loan.
    Đài Loan là một trong những nước công nghiệp mới (NIE[SUB]S[/SUB]), nhưng là 1 nước thành công nhất về mô h́nh kết hợp chặt trẽ giữa phát triển công nghiệp với phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn ( mặc dù Đài Loan không có các điều kiện thuận lợi như một số nước trong khu vực) đó là chính phủ Đài Loan đă áp dụng thành công một số chính sách về phát triển kinh tế -xă hội như:
    - Đưa lại ruộng đất cho nông dân, tạo điều kiện h́nh thành các trang trại gia đ́nh với quy mô nhỏ, chủ yếu đi vào sản xuất nông phẩm theo hướng sản xuất hàng hoá.
    - Đa dạng hoá sản xuÊt nông nghiệp, công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn, mở mang thêm những nghành sản xuát kinh doanh ngoài nông nghiẹp cũng được phát triển nhanh chóng, số trang trại vừa sản xuất nông nghiệp, vừa kinh doanh ngoài nông nghiệp chiếm 91% sè trang trại sản xuÊt thuần nông chiếm 90%. Việc tăng sản lượng và tăng năng suất lao động ttrong nông nghiệp đến lượt nó lại tạo điều kiện cho các nghành công nghiệp phát triển .
    - Đầu tư cho kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xă hội để phát triển nông thôn. Đài Loan rất coi trọng phát triển mạng lưới giao thông nông thôn cả về đường bộ, đường sắt và đường thuỷ.
    Trong nhiều thập kỷ qua, Đài Loan coi trọng việc phát triển giao thông nông thôn đều khắp các miền, các vùng sâu vùng xa, công cuộc điện khí hoá nông thôn góp phàn cải thiện điều kiện sản xuất, điều kiện sinh hoạt ở nông thôn. Chính quyền Đài Loan cho xây dựng các cơ sở sản xuất công nghiệp ngay ở vùng nông thôn để thu hút những lao đông nhàn rỗi của khu vực nông nghiệp, tăng thu nhập cho những người nông dân nghèo, góp phần cho họ ổn định cuộc sống. Đài Loan áp dụng chế độ giáo dục bắt buộc đối với những người trong độ tuổi, do đó tŕnh độ học vấn của nhân dân nông thôn được nâng lên đáng kể, cùng với tŕnh độ dân trí được nâng lên và điều kiện sống được cải thiện,Tỷ lệ tăng dân số đă giảm từ 3,2%/năm(1950) xuống c̣n 1,5%/năm(1985). Hệ thống ytế , chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân cũng được quan tâm đầu tư thích đáng.
    Ngoài Hàn Quốc, Đài Loan c̣n 1 số nước ASEAN cũng có những chương tŕnh phát triển kinh tế -xă hội bằng con đường kết hợp giữa những ngành công nghiệp mũi nhọn với việc phát triển kinh tế nông thôn với mục đích xoá đói giảm nghèo trong dân chúng nông thôn. Điều đặc trung quan trọng của các nước ASEAN là ở chỗ những nước này đều có nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, bước vào công nghiệp hoá có nghĩa là vào lúc khởi đầu của quá tŕnh công nghiệp hoá.Tất cả các nước ASEAN (trừ Singapo) đều phải dựa vào sản xuất nông nghiệp, lấy phát triển nông nghiệp là một trong những nguồn vốn cho phát triển công nghiệp, điền h́nh là những nước như Thái Lan, InĐôNêXiA, Philipin và Malaxia. Tất cả những nước này phần lớn dân cư sống ở khu vực nông thôn, đời sống kinh tế nghèo nàn lạc hậu, thu nhạp chủ yếu từ sản xuất nông nghiệp. Chính v́ vậy mà chính phủ các nước này trong quá tŕnh hoạch định các chính sach kinh tế -xă hội họ đều rất chú trọng đến các chính sách nhằm phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn , giành cho nông nghiệp nông thôn những ưu tiên cần thiết về vốn đầu tư đẻ tiến hành cuộc cách mạng xanh trong nông nghiẹp.Tuy nhiên khi bước vào giai đoạn 2 của quá tŕnh công nghiệp hoá, tất cả các nước ASEAN đều nhận thấy rằng không thể đi lên chỉ bằng con đường nông nghiệp mà phải đâù tư cho các ngành công nghiệp, dịch vụ. Chính v́ lẽ đó mà các chính sách về phát triển nông nghiệp nông thôn cũng như các chương tŕnh phát triển khác như chương tŕnh xoá đói giảm nghèo không được chú trọng như ở giai đoạn đàu của quá tŕnh công nghiệp hoá. Do vậy khoảng cách về thu nhập của những người giàu với những người nghèo là rất lớn. Sự phân tầng xă hội là rơ rệt gây mất ổn định về t́nh h́nh chính trị xă hội , từ đó làm mất ổn định trong phát triển kinh tế .
     
Đang tải...