Báo Cáo Một số giải pháp kỹ thuật nghiệp vụ nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu tại công ty dịch vụ d

Thảo luận trong 'Du Lịch' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    ĐỀ TÀI: Một số giải pháp kỹ thuật nghiệp vụ nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu tại công ty dịch vụ du lịch và thương mại TST

    LỜI NÓI ĐẦU

    Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đă đánh dấu bước ngoặt lớn trong cơ chế quản lư kinh tế nước ta từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lư của Nhà nước theo định hướng xă hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh mới, Đảng và Nhà nước ta đă chủ trương mở rộng quan hệ ngoại thương. Kinh doanh xuất nhập khẩu đóng một vai tṛ quan trọng trong công cuộc phát triển nền kinh tế đất nước. Xuất khẩu là nguồn tăng thu ngoại tệ, nâng cao khả năng phát triển nền kinh tế. Song nhập khẩu lại là điều kiện cần thiết để thực hiện tái sản xuất mở rộng, thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Nhập khẩu cho phép tận dụng được tiềm năng về khoa học kỹ thuật tiên tiến của các nước trên thế giới.
    Trong quá tŕnh đổi mới và xây dựng đất nước nhu cầu về máy móc thiết bị, vật liệu vật tư không ngừng tăng lên . Cùng với tiến tŕnh phát triển của đất nước, công ty Thương mại du lịch và dịch vụ TST đă không ngừng vươn lên tù hoàn thiện ḿnh. Hoạt động kinh doanh XNK nói chung và kinh doanh nhập khẩu máy móc thiết bị, vật liệu vật tư . nói riêng đă đạt được những kết quả bước đầu tương đối khả quan. Tuy nhiên đội ng̣ cán bộ công nhân viên trong công ty không thoả măn với những việc đă làm được mà luôn trăn trở để thực hiện tốt hơn nữa chức năng, nhiệm vụ mà Bộ Thương mại giao phó.
    Trong điều kiện bối cảnh kinh tế - chính trị thế giới có nhiều thay đổi theo chiều hướng xấu, cuộc khủng hoảng tài chính khu vực Châu á vẫn c̣n dư âm ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của các nước trong khu vực. Bên cạnh đó chính sách quản lư nhập khẩu của Nhà nước cũng c̣n nhiều tồn tại như biểu thuế nhập khẩu chưa khoa học, thủ tục hành chính c̣n nhiều phiền phức . Trước rất nhiều khó khăn như vậy làm thế nào để hoạt động nhập khẩu của công ty đạt hiệu quả cao? làm thế nào để phát huy thế mạnh của công ty có uy tín trong và ngoài nước? đó là những câu hỏi đặt ra từ thực trạng hoạt động nhập khẩu ở công ty dịch vô du lịch và thương mại TST.

    Trong thời gian thực tập tốt nghiệp tại công ty em đă tập trung nghiên cứu thực trạng hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty và đă chọn đề tài: "Một số giải pháp kỹ thuật nghiệp vụ nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu tại công ty dịch vụ du lịch và thương mại TST" làm luận văn tốt nghiệp.
    Do tính phức tạp của vấn đề, sự hạn hẹp về thời gian nên bài viết của em c̣n nhiều điểm chưa hoàn chỉnh, không thể tránh khỏi những sai sót, em rất mong sự góp ư kiến của các thầy cô giáo trong khoa.
    Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy giáo hướng dẫn Bùi Đức Dũng cùng tập thể cán bộ pḥng kinh doanh đă giúp đỡ em hoàn thành tốt luận văn của ḿnh.



    CHƯƠNG I
    NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ - MÉT HOẠT ĐỘNG CƠ BẢN CỦA KINH DOANH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
    TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG


    I. TẦM QUAN TRỌNG CỦA HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
    1. Vị trí của hoạt động nhập khẩu trong Thương mại Quốc tế.
    1.1. Khái niệm và vai tṛ của Thương mại Quốc tế đối với sự phát triển của mỗi Quốc gia.
    Thương mại quốc tế là mối quan hệ trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa một quốc gia với quốc gia khác, là một bộ phận trong quan hệ kinh tế quốc tế của một nước với các nước khác trên thế giới.
    Thương mại Quốc tế làm tăng khả năng thương mại của mỗi quốc gia. Từ sự khác biệt về tài nguyên, khoáng sản, lực lượng sản xuất, kỹ thuật công nghệ đă làm cho chi phí để sản xuất ra mỗi sản phẩm có sự khác biệt giữa nước này với nước khác.
    Thương mại Quốc tế góp phần mở rộng thị trường của mỗi quốc gia. Thương mại Quốc tế trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần tất yếu dẫn đến cạnh tranh, theo dơi, kiểm soát lẫn nhau rất chặt chẽ giữa các chủ thể kinh doanh Thương mại Quốc tế.
    Thương mại Quốc tế cho phép mua được những hàng hoá và dịch vụ ở những thị trường có giá rẻ hơn, sau đó bán chúng ở những thị trường có giá cao. Nhưng điều lư thó hơn cả là không phải lúc nào ta c̣ng mua được các sản phẩm có giá rẻ và bán chúng với giá đắt mà cái chính là chúng ta lợi dụng được lợi thế so sánh, nhờ đó qua trao đổi Quốc tế mà cả hai bên đều có lợi.
    Nói đến Thương mại Quốc tế không thể không t́m hiểu về các lư thuyết kinh tế, đặc biệt là quy luật lợi thế so sánh. Quy luật lợi thế so sánh nhấn mạnh sự khác nhau về chi phí sản xuất, coi đó là ch́a khoá của phương thức thương mại. Một quốc gia phải tập trung vào sản xuất và trao đổi sản phẩm mà ở đó thể hiện mối tương quan thuận lợi hơn giữa các mức chi phí cá biệt của Quốc gia đó với mức chi phí trung b́nh Quốc tế trên thị trường Thế giới. Do đó có thể thấy cốt lơi của lợi thế so sánh là sự khéo léo lùa chọn, biết kết hợp giữa ưu thế của một nước với ưu thế của nước khác để đạt được lợi thế tối đa trên cơ sở một khả năng hạn chế.
    Như vậy, một Quốc gia muốn phát triển th́ phải bảo đảm hiệu quả tối đa của việc chuyên môn hoá trên cơ sở lợi thế so sánh. Làm được điều đó th́ bất cứ một quốc gia nào cũng có thể tham gia vào thị trường Thương mại Quốc tế một cách có lợi nhất.
    1.2. Vị trí của công tác nhập khẩu trong Thương mại Quốc tế đối với một quốc gia.
    Nước ta cũng như nhiều nước khác có khả năng rất lớn về nhiều mặt như: tài nguyên thiên nhiên, lao động . song không chỉ nhằm vào chúng một cách độc lập mà hy vọng đạt hiệu quả cao. Tức là nói ngắn gọn không thể có một nền kinh tế phát triển cao dùa trên cơ sở hoàn toàn tự cấp tự túc.
    Để khai thác hiệu quả tiềm năng trên, chúng ta phải có vốn, khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Để có những yếu tố này chúng ta có thể sử dụng nhiều phương pháp mà phương pháp cơ bản nhất là thông qua Thương mại Quốc tế trong đó chủ yếu và giữ vị trí chủ động là hoạt động nhập khẩu. Trong điều kiện chúng ta c̣n tương đối lạc hậu về kinh tế công nghệ kỹ thuật thấp kém th́ việc thay thế lao động thủ công bằng lao động máy móc hiện đại hoá lực lượng sản xuất không thể ngày một ngày hai mà chỉ có thể tiến hành từng bước bằng nhập khẩu trong một thời gian dài. Việc thay đổi chiến lược kinh tế từ "đóng cửa” sang "mở cửa” là vô cùng quan trọng. Nền kinh tế mở sẽ tạo ra những hướng phát triển mới, tạo điều kiện khai thác lợi thế tiềm năng của nước chúng ta trong phân công lao động Quốc tế một cách có lợi nhất. Thương mại Quốc tế chỉ ra cho một nước lợi thế của ḿnh, nên đầu tư vào đâu, đầu tư vào lĩnh vực nào có lợi nhất. Nhập khẩu sẽ giúp chúng ta gỡ những vướng mắc mà những nước nghèo thường mắc phải, phương châm đó là vay mượn công nghệ nước ngoài trong thời kỳ đầu công nghiệp hoá.
    2. Vai tṛ của hoạt động nhập khẩu.
    Nhập khẩu là một trong hai hoạt động cấu thành hoạt động ngoại thương. Có thể hiểu đó là việc mua hàng hoá, dịch vụ từ nước ngoài về phục vụ cho nhu cầu trong nước hoặc tái sản xuất nhằm mục đích thu lợi. Nhập khẩu thể hiện sự phụ thuộc gắn bó lẫn nhau giữa nền kinh tế của một quốc gia với nền kinh tế Thế giới. Hiện nay khi các nước đều có xu hướng chuyển từ đối đầu sang đối thoại, nền kinh tế quốc gia đă hoà nhập với nền kinh tế Thế giới th́ vai tṛ của nhập khẩu đă trở nên vô cùng quan trọng.
    - Nhập khẩu mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước, cho phép tiêu dùng một lượng hàng hoá lớn hơn khả năng sản xuất trong nước và tăng mức sống của nhân dân.
    - Nhập khẩu làm đa dạng hoá mặt hàng về chủng loại, quy cách, mẫu mă cho phép thoả măn nhu cầu trong nước.
    - Nhập khẩu tạo ra sự chuyển giao công nghệ, do đó tạo ra sự phát triển vượt bậc của sản xuất xă hội, tiết kiệm chi phí và thời gian, tạo ra sự đồng đều về tŕnh độ phát triển trong xă hội.
    - Nhập khẩu tạo ra sự cạnh tranh giữa hàng nội và hàng ngoại, tạo ra động lực bắt buộc các nhà sản xuất trong nước phải không ngừng vươn lên, tạo ra sự phát triển xă hội và sự thanh lọc các đơn vị sản xuất.
    - Nhập khẩu xoá bỏ t́nh trạng độc quyền, phá vỡ triệt để nền kinh tế đóng, chế độ tự cấp, tự túc.
    - Nhập khẩu giải quyết những nhu cầu đặc biệt (hàng hoá hiếm hoặc quá hiện đại mà trong nước không thể sản xuất được).
    - Nhập khẩu là cầu nối thông suốt nền kinh tế, thị trường trong và ngoài nước với nhau, tạo điều kiện phân công lao động và hợp tác quốc tế, phát huy được lợi thế so sánh của đất nước trên cơ sở chuyên môn hoá.
    3. Các h́nh thức nhập khẩu thông dụng trong thương mại quốc tế.
    Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu chỉ được tiến hành ở các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp, nhưng trong thực tế do tác động của môi trường, điều kiện kinh doanh cùng với sự năng động sáng tạo của người kinh doanh đă tạo ra nhiều h́nh thức nhập khẩu khác nhau. Có thể kể ra đây một vài h́nh thức nhập khẩu đang được sử dụng tại các doanh nghiệp của nước ta hiện nay.
    3.1. Nhập khẩu trực tiếp:
    Hoạt động nhập khẩu trực tiếp là h́nh thức nhập khẩu độc lập của một doanh nghiệp xuất nhập khẩu trên cơ sở nghiên cứu kỹ thị trường trong và ngoài nước, tính toán đầy đủ các chi phí đảm bảo kinh doanh có lăi, đúng phương hướng, chính sách luật pháp của Nhà nước cũng như quốc tế.
    Trong hoạt động nhập khẩu tự doanh, doanh nghiệp hoàn toàn nắm quyền chủ động và phải tự tiến hành các nghiệp vụ của hoạt động nhập khẩu từ nghiên cứu thị trường, lùa chọn bạn hàng, lùa chọn phương thức giao dịch, đến việc kư kết và thực hiện hợp đồng. Doanh nghiệp phải tự bỏ vốn để chi trả các chi phí phát sinh trong hoạt động kinh doanh và được hưởng toàn bộ phần lăi thu được cũng như phải tự chịu trách nhiệm nếu hoạt động đó thua lỗ.
    Khi nhập khẩu tự doanh th́ doanh nghiệp được trích kim ngạch nhập khẩu, khi tiêu thụ hàng nhập khẩu doanh nghiệp phải chịu thuế doanh thu, thuế lợi tức.
    Thông thường, doanh nghiệp chỉ cần lập một hợp đồng nhập khẩu với nước ngoài, c̣n hợp đồng tiêu thụ hàng hoá trong nước th́ sau khi hàng về sẽ lập.
    3.2. Nhập khẩu uỷ thác.
    Hoạt động nhập khẩu uỷ thác là hoạt động nhập khẩu h́nh thành giữa một doanh nghiệp hoạt động trong nước có ngành hàng kinh doanh một số mặt hàng nhập khẩu nhưng không đủ điều kiện về khả năng tài chính, về đối tác kinh doanh . nên đă uỷ thác cho doanh nghiệp có chức năng trực tiếp giao dịch ngoại thương tiến hành nhập khẩu hàng hoá theo yêu cầu của ḿnh. Bên nhận uỷ thác phải tiến hành đàm phán với nước ngoài để làm thủ tục nhập khẩu theo yêu cầu của bên uỷ thác và được hưởng một hoa hồng gọi là phí uỷ thác. Quan hệ giữa doanh nghiệp uỷ thác và doanh nghiệp nhận uỷ thác được quy định đầy đủ trong hợp đồng uỷ thác.
    Nhập khẩu uỷ thác có đặc điểm: trong hoạt động nhập khẩu này, doanh nghiệp Xuất nhập khẩu (nhận uỷ thác) không phải bỏ vốn, không phải xin hạn ngạch (nếu có), không phải nghiên cứu thị trường tiêu thụ v́ không phải tiêu thụ hàng nhập mà chỉ đứng ra đại diện cho bên uỷ thác để giao dịch với bạn hàng nước ngoài, kư hợp đồng và làm thủ tục nhập hàng cũng như thay mặt cho bên uỷ thác khiếu nại đ̣i bồi thường với nước ngoài khi có tổn thất.
    Khi tiến hành nhập khẩu uỷ thác th́ đại diện của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu chỉ được tính kim ngạch xuất nhập khẩu chứ không được tính doanh số, không chịu thuế doanh thu. Khi nhận uỷ thác, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu này (nhận uỷ thác) phải lập hai hợp đồng:
    - Mét hợp đồng mua bán hàng hoá với nước ngoài
    - Mét hợp đồng nhận uỷ thác với bên uỷ thác.
    3.3. Nhập khẩu liên doanh.
    Đây là một hoạt động nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết kỹ thuật một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp (trong đó có Ưt nhất một doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp) nhằm phối hợp kỹ năng, kỹ thuật để cùng giao dịch và đề ra các chủ trương biện pháp có liên quan đến hoạt động nhập khẩu, thúc đẩy hoạt động này phát triển theo hướng có lợi nhất cho cả hai bên, cùng chia lăi nếu lỗ th́ cùng phải chịu.
    Nhập khẩu liên doanh có đặc điểm: so với tự doanh th́ các doanh nghiệp nhập khẩu liên doanh Ưt chịu rủi ro bởi mỗi doanh nghiệp liên doanh nhập khẩu chỉ phải góp một phần vốn nhất định, quyền hạn và trách nhiệm của các bên cũng tăng theo số vốn góp, việc phân chia chi phí, thuế doanh thu theo tỷ lệ vốn góp, lăi lỗ hai bên phân chia tuỳ theo thoả thuận dùa trên vốn góp cộng với phần trách nhiệm mà mỗi bên gánh vác.
    Trong nhập khẩu liên doanh th́ doanh nghiệp đứng ra nhận hàng sẽ được tính kim ngạch xuất nhập khẩu. Khi đưa hàng về tiêu thụ th́ chỉ được tính doanh số trên số hàng tính theo tỷ lệ vốn góp và chịu thuế doanh thu trên doanh số đó.
    Doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp tham gia liên doanh phải lập hai hợp đồng:
    - Mét hợp đồng mua hàng với nước ngoài.
    - Mét hợp đồng liên doanh với doanh nghiệp khác (không nhất thiết phải là doanh nghiệp Nhà nước).
    4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu.
    4.1. Các chế độ chính sách luật pháp trong nước và quốc tế:
    Đây là những vấn đề quan trọng mà các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu buộc phải nắm vững và tuân theo một cách vô điều kiện. V́ nó thể hiện ư chí của Đảng lănh đạo mỗi nước, sự thống nhất chung của Quốc tế, nó bảo vệ lợi Ưch chung của các tầng líp trong xă hội, lợi Ưch của các nước trên thương trường Quốc tế. Hoạt động nhập khẩu được tiến hành giữa các chủ thể các Quốc gia khác nhau. Bởi vậy, nó chịu sự tác động của các chính sách, chế độ, luật pháp của các quốc gia đó. Chẳng hạn như tự sửa đổi thực hiện, sửa đổi luật pháp quốc gia hay sự thực hiện thay đổi chính sách thuế ưu đăi của một nước hay một nhóm nước, điều đó không những chỉ ảnh hưởng đến nước đó mà c̣n ảnh hưởng đến các nước có quan hệ kinh tế xă hội với những nước đó. Đồng thời, hoạt động xuất nhập khẩu phải nhất định tuân theo những quy định luật pháp Quốc tế chung. Luật pháp quốc tế buộc các nước v́ lợi Ưch chung phải thực hiện đầy đủ trách nhiệm và nghĩa vụ của ḿnh trong hoạt động của ḿnh trong hoạt động nhập khẩu, do đó tạo nên sự tin tưởng cũng như hiệu quả cao trong hoạt động này.


    4.2. Tỷ giá hối đoái.
    Nhân tố này có ư nghĩa quyết định trong việc xác định mặt hàng, bạn hàng, phương án kinh doanh, quan hệ kinh doanh của không chỉ một doanh nghiệp xuất nhập khẩu mà tới tất cả các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung. Sự biến đổi của nhân tố này sẽ gây ra những biến động lớn trong tỷ trọng giữa xuất khẩu và nhập khẩu. Ví dụ khi tỷ giá hối đoái của đồng tiền thanh toán có lợi cho việc nhập khẩu th́ lại bất lợi cho xuất khẩu và ngược lại.
    Mặt khác có rất nhiều loại tỷ giá hối đoái: tỷ giá hối đoái cố định, tỷ giá hối đoái thả nổi, tỷ giá hối đoái thả nổi tự do và tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lư. V́ vậy khi tiến hành bất cứ một hoạt động thương mại xuất nhập khẩu nào, doanh nghiệp cũng cần nắm vững xem hiện nay quốc gia mà ḿnh định hoạt động đang áp dụng loại tỷ giá nào, bởi việc Ên định này sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu và kinh doanh hàng nhập khẩu.
    4.3. Sự biến động thị trường trong nước và nước ngoài.
    Có thể h́nh dung hoạt động nhập khẩu như một chiếc cầu nối thông thương giữa hai thị trường: đầu cầu bên này là thị trường trong nước, đầu cầu bên kia là thị trường ngoài nước. Nó tạo sự phù hợp gắn bó cũng như phản ánh sự tác động qua lại giữa chúng, phản ánh sự biến động của mỗi thị trường, cụ thể như sự tôn trọng giá, giảm nhu cầu về một mặt hàng nào đó trong nước sẽ làm giảm lượng hàng hoá đó chuyển qua chiếc cầu nhập khẩu và ngược lại. Cũng như vậy, thị trường ngoài nước quyết định tới sự thoả măn các nhu cầu trên thị trường trong nước. Sự biến đổi của nó về khả năng cung cấp, về sự đa dạng của hàng hoá, dịch vụ cũng được phản ánh qua chiếc cầu nhập khẩu để tác dụng đến thị trường nhập khẩu.
    4.4. Nền sản xuất cũng như sự phát triển của các doanh nghiệp Thương mại trong và ngoài nước.
    Sự phát triển sản xuất của những doanh nghiệp trong nước tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ với sản phẩm nhập khẩu, tạo ra sản phẩm nhập khẩu từ đó làm giảm nhu cầu hàng nhập khẩu. C̣n nếu như sản xuất kém phát triển không sản xuất được những mặt hàng đ̣i hỏi kỹ thuật cao th́ nhu cầu về hàng nhập khẩu tăng lên là điều tất nhiên và do đó nó ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu.
    Ngược lại, sự phát triển của nền sản xuất nước ngoài làm tăng khả năng của sản phẩm nhập khẩu, tạo ra sản phẩm mới thuận tiện, hiện đại, sẽ hấp dẫn nhu cầu nhập khẩu đẩy nó lên cao tạo đà cho hoạt động nhập khẩu phát triển.
    Tuy nhiên, không phải lúc nào sản xuất trong nước phát triển th́ hoạt động bị thu hẹp, mà nhiều khi để tránh sự độc quyền, tạo ra sự cạnh tranh, hoạt động nhập khẩu lại được khuyến khích phát triển. Tương tự như vậy, để bảo vệ quyền sản xuất trong nước, khi nền sản xuất nước ngoài phát triển th́ hoạt động nhập khẩu càng bị thu hẹp và kiểm soát gắt gao.
    Cũng như sản xuất, sự phát triển của hoạt động Thương mại trong và ngoài nước, sự phát triển của các doanh nghiệp kinh doanh Thương mại quyết định đến sự chu chuyển, lưu thông hàng hoá trong nền kỹ thuật hay giữa các nền kinh tế. Chính v́ vậy, nó tạo thuận lợi cho công tác nhập khẩu. Mặt khác do chủ thể của hoạt động nhập khẩu chính là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, sự phát triển của doanh nghiệp này đồng nghĩa với việc thực hiện một cách có hiệu quả các hoạt động nhập khẩu. Trong một nước mà các doanh nghiệp Thương mại không được tự chủ phát triển, chịu sự can thiệp quá sâu của Nhà nước th́ hoạt động nhập khẩu cũng không thể phát huy thế chủ động, tinh thần sáng tạo không thể vươn mạnh ra nước ngoài từ đó tạo ra sự bí bách trong nền kinh tế.
    4.5. Hệ thống tài chính ngân hàng.
    Hiện nay, hệ thống tài chính ngân hàng đă phát triển hết sức lớn mạnh, nó can thiệp sâu tới tất cả các doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ, dù tồn tại dưới h́nh thức nào, thuộc thành phần kinh tế nào.
    Có được điều đó là bởi nó đóng vai tṛ hết sức to lớn trong hoạt động quản lư, cung cấp vốn, đảm trách việc thanh toán một cách thuận tiện, chính xác, nhanh chóng cho các doanh nghiệp. Hoạt động nhập khẩu sẽ không thực hiện được nếu không có sự phát triển của hệ thống ngân hàng, dùa trên các thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia hoạt động nhập khẩu, đảm bảo cho họ về mặt lợi Ưch kỹ thuật cũng như xă hội và cũng nhiều trường hợp do có ḷng tin với ngân hàng mà các doanh nghiệp với số lượng vốn lớn kịp thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp chớp được những thời cơ kinh doanh.
    4.7. Hệ thống cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải, thông tin liên lạc:
    Việc thực hiện hoạt động nhập khẩu không thể tách rời với hoạt động vận chuyển và thông tin liên lạc. Nhờ có thông tin liên lạc hiện đại mà công việc có thể tiến hành thuận lợi, kịp thời. C̣n việc vận chuyển hàng hoá từ nước này sang nước khác là một công việc hết sức quan trọng trong hoạt động nhập khẩu. Do đó sự hiện đại hoá công việc nghiên cứu và áp dụng những công nghệ tiên tiến của khoa học kỹ thuật vào hệ thống thông tin và giao thông vận tải là tất yếu ảnh hưởng to lớn đến hoạt động nhập khẩu.
    Trên đây, chúng ta đă xem xét một số nhân tố chính ảnh hưởng có tính chất quyết định đến hoạt động nhập khẩu của bất cứ một quốc gia nào. Bên cạnh đó cũng c̣n rất nhiều nhân tố khác. V́ vậy hoạt động nhập khẩu hết sức phức tạp và có mối tác động qua lại tương hỗ với nhiều hoạt động khác trong nền kinh tế.
    II. NỘI DUNG CHÍNH CỦA HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU.
    Hoạt động nhập khẩu là một quá tŕnh bao gồm rất nhiều khâu từ khâu nghiên cứu thị trường đến khâu tiếp nhận và bảo quản hàng hoá. ở mỗi khâu đều cần phải nghiên cứu thực hiện một cách đầy đủ kỹ lưỡng, đồng thời phải đặt các khâu trong mối quan hệ hữu cơ với nhau. Có như vậy hoạt động nhập khẩu mới đạt được hiệu quả cao, phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng và nhu cầu tái sản xuất mở rộng trong nước, thực hiện nhiệm vụ của cấp trên giao đồng thời cũng đạt được mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp.
    Hoạt động nhập khẩu rất phức tạp và biến động muôn h́nh muôn vẻ nhưng nh́n chung các hoạt động nhập khẩu đều bao gồm các bước sau:
    1. Nghiên cứu thị trường nhập khẩu.
    Thị trường là phạm trù khách quan gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền sản xuất hàng hoá.
    Việc nghiên cứu thị trường là công việc đầu tiên cũng là công việc đ̣i hỏi cần được tiến hành liên tục thường xuyên trong suốt quá tŕnh kinh doanh của doanh nghiệp.
    1.1. Nghiên cứu thị trường trong nước.
    Việc nghiên cứu thị trường trong nước nhằm mục đích nhận biết sản phẩm nhập khẩu, từ đó chọn ra mặt hàng kinh doanh có lợi nhất. Muốn như vậy phải trả lời được những câu hỏi sau:
    * Thị trường trong nước cần những mặt hàng ǵ? T́nh h́nh tiêu thụ mặt hàng đó ra sao?
     
Đang tải...