Luận Văn Một số giải pháp đối với công tác quản lí tài chính bhxh việt nam

Thảo luận trong 'Ngân Hàng' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI CÔNG TÁC QUẢN LÍ TÀI CHÍNH BHXH VIỆT NAM

    CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI CÔNG TÁC QUẢN LÍ TÀI CHÍNH BHXH VIỆT NAM
    TRONG THỜI KÌ TỚI


    I. Những quan điểm chủ yếu về vấn đề quản lí tài chính BHXH Việt Nam trong giai đoạn tới.
    1. Quan điểm trong xây dựng chính sách BHXH.
    Trong quá trình xây dựng chính sách BHXH phải thực sự quan tâm tới đường lối, điều kiện kinh tế của đất nước để từ đó đưa ra được những chính sách phù hợp. Sau đây là những quan điểm chủ yếu trong xây dựng chính sách BHXH Việt Nam:
    -Chính sách BHXH phải thể hiện được đường lối đổi mới, phát triển của Đảng và Nhà nước ta trong thời kì mới, thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
    -Chính sách BHXH phải phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội của nước ta hiện nay.
    -Nhà nước thống nhất quản lí và ban hành chính sách BHXH theo hướng phát huy quyền của các bên tham gia BHXH.
    -Đa dạng hoá các hình thức BHXH.
    -Hoàn thiện cơ chế hoạt động và tổ chức bộ máy thực hiện chính sách BHXH cho phù hợp với điều kiện của đất nước.
    1.Những quan điểm cụ thể trong công tác quản lí tài chính BHXH Việt Nam trong giai đoạn tới.
    -Quỹ BHXH hình thành nên từ những đóng góp của các bên than gia, trong đó gồm người lao động và cả chủ sử dụng lao động. Bên cạnh đó có sự hỗ trợ của NSNN, tiền sinh lời từ hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ và các nguồn thu hợp pháp khác.
    -Quỹ BHXH được quản lí tập trung, thống nhất, dân chủ và công khai trong toàn hệ thống BHXH Việt Nam; hoạch toán theo quỹ thành phần độc lập với NSNN và được Nhà nước bảo hộ.
    -Quỹ BHXH đảm bảo cho các đối tượng hưởng chế độ sau ngày 1/10/1995 (trước ngày này do NSNN đảm bảo); chi BHYT cho các đối tượng tham gia BHYT; chi quản lí bộ máy của hệ thống BHXH Việt Nam; chi xây dựng cơ bản và các khoản chi khác.
    -BHXH có trách nhiệm dùng quỹ nhàn rỗi để đầu tư an toàn, bảo toàn được giá trị quỹ và có hiệu quả về mặt kinh tế- xã hội.
    -Quỹ BHXH được hoạch toán riêng và cân đối thu chi theo từng năm.


    II. Giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng hoạt động quản lí tài chính BHXH trong gian đoạn tới.
    1. Bài học kinh nghiệm từ hệ thống BHXH CHLB Đức và Trung Quốc.
    Qua tìm hiểu về tổ chức quản lí và hoạt động tài chính của hai hệ thống BHXH trên ta nhận thấy một số những ưu điểm như khắc phục được sự ảnh hưởng từ môi trường kinh tế. Đặc biệt là hệ thống BHXH của CHLB Đức hiện nay đang thực hiện theo phương thức hàng năm sẽ thống kê ra số chi, trên cơ sở số liệu đó tính toán số thu hợp lí cho năm đó. Thực hiện như vậy lạm phát không thể ảnh hưởng tới quỹ BHXH cũng như việc chi trả các chế độ chính sách. Vì vậy, BHXH sẽ chủ động hơn trong việc quản lí tài chính. Hiện nay dự trữ quỹ BHXH là rất nhỏ chứng tỏ quỹ BHXH đảm bảo được khả năng chi trả một cách tương đối ổn định. Tuy vậy việc triển khai thực hiện phương thức này đòi hỏi phải có những điều kiện nhất định. Thường là ở những nước phát triển, có tiềm năng kinh tế đủ mạnh thì mới có thể áp dụng được phương pháp này. Việc triển khai phương thức này tại Việt Nam là tương đối khó khăn, việc thống kê là rất khó chính xác, chi phí lớn. Hơn nữa điều kiện kinh tế nước ta là nước đang phát triển, điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn. Tuy vậy BHXH CHLB Đức hiện nay được tổ chức thực hiện thông qua cả tổ chức BHXH tư nhân, như vậy sẽ có sự cạnh tranh và tất yếu của cạnh tranh là hiệu quả hoạt động càng cao. Từ hoạt động của BHXH CHLB Đức có thể đưa việc triển khai việc thực hiện một số chính sách thông qua hệ thống BHXH tư nhân là khả thi tại BHXH Việt Nam.
    Đối với hệ thống BHXH Trung Quốc, đây là hệ thống BHXH được tổ chức như một hệ thống mở, các chính sách được cụ thể hóa và thực hiện chưa thực sự thống nhất trong cả nước song tính hiệu lực tương đối cao. Đây cũng là một điểm mạnh mà BHXH Việt Nam cần xem xét vì hiện nay tính hiệu lực trong các quy định của nước ta là chưa cao. Các đối tượng bắt buộc tham gia của BHXH Việt Nam thực hiện chưa đầy đủ, việc trốn đóng hay nợ đọng vẫn là những vấn đề còn tồn tại. Bên cạnh đó, việc tổ chức quỹ thành hai phần: phần thứ nhất là một phần phí do người sử dụng lao động nộp để sử dụng chung, phần thứ hai bao gồm phần phí do người lao động nộp và phần còn lại do người sử dụng nôp. Phần thứ hai này được tổ chức thành tài khoản cho người lao động, họ có thể chủ động hơn trong các kế hoạch tài chính của mình.
    2. Những giải pháp cụ thể.
    2.1. Giải pháp cho công tác quản lí thu BHXH.
    Quản lí đối tượng tham gia và đóng góp đầy đủ, chính xác, đúng thời hạn là mục tiêu của chính sách quản lí thu. Để thực hiện tốt công tác quản lí thu BHXH, cần thực hiện áp dụng những biện pháp sau:
    -Cần tích cực phối kết hợp với các ban ngành quản lí từ Trung ương đến địa phương, trước tiên là quản lí tốt các đơn vị bắt buộc tham gia BHXH, sau đó ta mới quản lí đến lao động trong đơn vị đó. Một thực tế hiện nay là còn rất nhiều đơn vị nhỏ chưa thực hiện tham gia BHXH cho những lao động của đơn vị mình. Muốn thực hiện tốt công việc này chúng ta có thể thông qua những đơn vị, cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép thành lập và hoạt động như: Sở kế hoạch và đầu tư, cơ quan quản lí, cục thế, Như vậy ngay khi thành lập các đơn vị này phải tham gia thực hiện ngay từ đầu và trong quá trình hoạt động sau này BHXH Việt Nam sẽ dễ dàng quản lí hơn.
    -Trên cơ sở quản lí các đối tượng tham gia, BHXH Việt Nam có thể thực hiện phân loại các đơn vị sử dụng lao động để dễ dàng trong công tác kiểm tra theo dõi việc thực hiện chính sách BHXH. Chúng ta có thể phân loại các đơn vị như sau: khối hành chính sự nghiệp, khối doanh nghiệp Nhà nước, khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các đơn vị khác (cán bộ xã phường, các tổ chức, ). Việc phân loại trên giúp cho BHXH Việt Nam dễ dàng hơn trong việc quản lí các đối tượng, có thể phân công cán bộ hợp lí hơn.
    -Thứ hai là công tác cấp sổ cho người lao động để theo dõi quá trình tham gia và đóng góp của họ vào quỹ BHXH. Hiện nay công tác này thực hiện tương đối tốt, song cần đưa những ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lí hoạt động này. Công nghệ mới này sẽ thay thế các phương pháp thủ công trong việc cập nhật những thay đổi về của đối tượng tham gia BHXH. Công việc này có thể giúp giảm chi phí mà tính chính xác lại cao, đây cũng là lĩnh vực được ưu tiên áp dụng công nghệ trong quản lí sớm nhất. Cần tích cực hơn nữa trong việc nghiên cứu ứng dụng công nghệ cho công tác quản lí thu phù hợp với từng loại đối tượng, từng địa phương. Đây là hướng đi lâu dài, đảm bảo thực hiện nhanh chóng, chính xác và tiết kiệm được chi phí quản lí.
    -Bên cạnh những biện pháp quản lí trên chúng ta cũng cần đẩy mạnh công tác giáo dục, tuyên truyền cho các đối tượng thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Qua đó họ có thể nhận thức được tầm quan trọng cũng như ý nghĩa của việc tham gia BHXH. Có thể từ đó ngay chính người chủ sử dụng cũng nhận thức được lợi ích của việc tham gia BHXH và họ sẽ tự nguyện thực hiện mà không cần có những biện pháp cưỡng chế. Đối với nội dung tuyên truyền phải dễ hiểu, dễ tiếp thu, gần gũi với đời sống của người lao động, phù hợp với truyền thống dân tộc.
    -Trong công tác thu cần đẩy mạnh việc kiểm tra đôn đốc việc thực hiện thu nộp đối với những đơn vị chậm đóng hay nợ đọng thường xuyên. Đặc biệt là phối hợp chặt chẽ với các bên như thanh tra, tổ chức chính trị xã hội ( Liên đoàn lao động, tổ chức Đảng, Đoàn thể, .) để kiểm tra việc kê khai lao động, kê khai quỹ lương của doanh nghiệp. Ngoài ra cần có những biện pháp xử phạt nghiêm minh đối với các trường hợp vi phạm. Hiện nay các biện pháp xử phạt của chúng ta chỉ mang tính chất cảnh cao, chưa đủ nghiêm khắc để điều chỉnh hành vi chốn nộp hay nợ đọng. Bên cạnh những quy định xử phạt, BHXH cũng nên thường xuyên thông báo cho các đơn vị số nợ lãnh đạo các đơn vị tham gia BHXH được biết.
    -Trong bản thân ngành cũng cần có những biện pháp quản lí tốt đối với cán bộ thu, tránh tình trạng cán bộ BHXH thông đồng với các đơn vị tham gia BHXH. Đối với các trường hợp vi phạm cần có những biện pháp xử phạt nghiêm minh. Bên cạnh đó BHXH cũng cần có những chế độ khen thưởng khuyến khích đối với các cá nhân đơn vị thực hiện tốt gồm cả các đơn vị tham gia BHXH lẫn các cá nhân, đơn vị trong ngành.
    2.2. Giải pháp cho công tác quản lí chi các chế độ BHXH.
    Mục tiêu của công tác quản lí chi chế độ là chi đúng, kịp thời đảm bảo an toàn tránh thất thoát quỹ BHXH. Chi cho các chế độ được quy định rõ cho từng loại chế độ với mức hưởng, thời gian hưởng trong các văn bản. Sau đây tôi chỉ xin đưa ra một số biện pháp để quản lí các khoản chi chế độ mà không đị sâu vào các quy định hưởng của từng loại chế độ. Để quản lí chi cần thực hiện tốt các giải pháp sau đây:
    -Xây dựng một quy trình xét duyệt hồ sơ đơn giản nhanh chóng nhưng phải đảm bảo chính xác, đúng chế độ, đúng đối tượng và đúng mức trợ cấp. Quy trình xét duyệt hồ sơ được thực hiện thông qua ba cấp: đơn vị sử dụng lao động hướng dẫn người lao động lập hồ sơ, BHXH cấp tỉnh sẽ thực hiện kiểm tra và ra quyết định mức hưởng cho người lao động, BHXH Việt Nam thẩm định tính chính xác của quyết định trên. Muốn thực hiện được như vậy trước tiên chúng ta phải có những cán bộ xét duyệt được đào tạo và có năng lực, trình độ và phải có đạo đức nghề nghiệp, tránh tình trạng thông đồng. Phải thực hiện việc đào tạo các cán bộ chuyên trách của đơn vị tham gia BHXH về thủ tục và các giấy tờ cần thiết để họ hướng dẫn lại cho các đối tượng được hưởng của đơn vị mình, tránh tình trạng thiếu giấy tờ cần thiết trong hồ sơ. Phải phối hợp với các cơ quan đơn vị khác để kiểm tra tính hợp pháp của các hồ sơ hưởng như: bên bệnh viện, cảnh sát, toà án,
    -Cần tích cực kiểm tra và rà soát lại các hồ sơ đã xét duyệt, nếu phát hiện ra những vi phạm phải lập tức điều chỉnh hoặc dừng việc trợ cấp lại ngay. Và việc kiểm tra này phải được thực hiện định kì, nếu có sai sót mà BHXH tỉnh không thu hồi lại được thì phải có trách nhiệm bội thường cho quỹ. Đặc biệt nếu phát hiện ra cán bộ BHXH có thông đồng với người được hưởng trợ cấp thì phải xử phạt nghiêm minh.
    -Lập hệ thống đại lí thực hiện chi trả kịp thời đảm bảo công tác chi được thực hiện một cách nhanh chóng, chính xác. Theo như tình hình hiện nay, đối với các chế độ ngắn hạn đại lí chính là người sử dụng lao động, đối với các chế độ dài hạn chủ yếu là các cán bộ xã phường là phù hợp với điều kiện nước ta hiện nay. Tuy vậy cùng với sự phát triển của hệ thống ngân hàng hiện nay thì chúng ta có thể triểm khai áp dụng hình thức chi tra thông qua hệ thống tài khoản. Đây cũng là định hướng tốt bởi nếu thực hiện được thì chi phí quản lí sẽ tiết kiệm được chi phí quản lí lại vừa đảm bảo tính an toàn.
    2.3. Giải pháp cho công tác chi quản lí.
    Như chúng ta đã biết chi quản lí hiện nay có hai khoản chi lớn đó là chi hoạt động thường xuyên của bộ máy quản lí và chi đầu tư xây dựng cơ bản. Đối với khoản chi thường xuyên của bộ máy quán lí cần áp dụng những biện pháp sau để tiết kiệm chi phí quản lí mà vẫn đảm bảo được hiệu quả hoạt động của hệ thống BHXH:
    -Thứ nhất là cần phải ngiên cứu xem xét các khoản chi cho hợp lí cân đối với các ngành khác. Vì hiện nay BHXH vẫn thực hiện quản lí lao động dưới hình thức biên chế như các đơn vị hành chính khác, mức lương vẫn tính trên cơ sở bảng lương Nhà nước.
    -Cũng giống như các đơn vị hành chính khác BHXH vẫn còn bộ máy quản lí tương đối cồng kềnh. Do vậy cần thực hiện các biện pháp sắp xếp lại bộ máy quản lí, tuyển dụng những lao động được đào tạo chính quy, có năng lực, có trình độ và đặc biệt có đạo đức. Tránh tình trạng số lao động nhiều song hiệu quả công việc không cao. Bên cạnh đó cần khuyến khích lao động phát huy hiệu quả công việc.
    Tiếp theo là những biện pháp đối với chi đầu tư xây dựng cơ bản.
    -Trước hết, chúng ta đã biết khoản chi này lấy từ lãi đầu tư để nâng cấp các trụ sở BHXH tỉnh, huyện hay mua sắm các trang thiết bị phục vụ cho quản lí. Đối với các khoản chi này cần lập các dự án và quyết toán để thẩm định xem xét lĩnh vực này có thực sự cần thiết đối với hoạt động của BHXH. Phải thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các quy định, trình tự về công tác quản lí đầu tư, thực thi công việc đúng thẩm quyền, trách nhiệm theo phân cấp.
    -Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thẩm, định ở tất cả các giai đoạn từ khâu lập dự án cho đến khâu tổ chức thi công, bàn giao công trình đưa công trình vào sử dụng. Trong ba khâu đó cần đặc biệt chú trọng đến khâu giám sát thi công, xem xét công trình phải được xây dựng theo đúng thiết kế dự án, đúng chủng loại vật tư, đúng giá cả trên thị trường. Kịp thời báo cáo tiến độ của dự án, sau đó đưa ra những biện pháp khi có những thay đổi.
    -Các dự án được thông qua phải là các dự án phù hợp với công tác quản lí của từng đìa vừa đảm bảo tính hiện đại, không bị lạc hậu ít nhất trong mười năm tới. Và việc áp dụng các dự án phải thực sự có ích và tiết kiện chi phí tối đa. Cán bộ quản lí của những hoạt động này cần phải học hỏi, nghiên cứu tài liệu để nâng cao kiến thức, trình độ nghiệp vụ về lĩnh vực đầu tư xây dựng và mua sắm trang thiết bị. Thông qua những kiến thức đó BHXH có thể tự quản lí các khoản chi đầu tư nâng cấp xây dựng mà không lãng phí vào các công trình không có ích.
    2.4. Giải pháp đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH.
    Đầu tư để bảo toàn và tăng trưởng trưởng quỹ hiện nay đang là hoạt động cần thiết giúp cho quỹ BHXH có đủ tiềm lực tài chính đáp ứng được nhu cầu chi trả cho các đối tượng. Đây là lĩnh vực đáng quan tâm và cần có những giải pháp cụ thể để đẩy mạnh hoạt động đầu tư một cách có hiệu quả. Với điều kiện kinh tế trong nước như hiện nay hướng đầu tư tăng trưởng quỹ cần được quan tâm đúng mức và đây cũng là giải pháp cho tương lai.
    -Hiện nay tỉ lệ quỹ nhàn rỗi được đem đi đầu tư là khá cao song thực sự hiệu quả trên đồng vốn còn thấp. Một số cho rằng nên đầu tư khoảng 80% vốn nhàn rỗi vào các lĩnh vực an toàn mà chủ yếu là thông qua các tổ chức tài chính và tiền tệ cuả Nhà nước. Đây cũng chính là những biện pháp bảo tồn quỹ BHXH được quy định trong quy chế tài chính BHXH ban hành kèm Nghị quyết 2/2003 của Thủ tướng Chính phủ. Các hoạt động đó bao gồm:
    Mua trái phiếu, tín phiếu, kì phiếu, công trái của Kho bạc Nhà nước và các ngân hàng thương mại của Nhà nước.
    Cho NSNN, Quỹ hô trợ đầu tư và phát triển, các ngân hàng thương mại của Nhà nước, ngân hàng chính sách vay.
    Đầu tư vào một số dự án có nhu cầu về vốn do Thủ tướng Chính phủ quyết định.
    20% quỹ nhàn rỗi còn lại có thể đem đầu tư vào các hình thức đầu tư khác với tỷ lệ lợi nhuận cao hơn. Chẳng hạn như đầu tư bất động sản, đầu tư vào thị trường chứng khoán, đầu tư trực tiếp vào các dự án sản suất kinh doanh khác,
    -Với thời điểm hiện nay nền kinh tế nước ta đang tương đối ổn định, nhu cầu về vốn đầu tư rất cao, thị trường trong nước hiện nay đang khuyến khích sự tham gia đầu tư vốn từ nước ngoài. Việc đầu tư thị trường trong nướcc hiện nay là rất cần thiết, vả lại đầu tư trong nước còn mang lại nhiều lợi ích về mặt xã hội khác. Do vậy nên mở rộng danh mục đầu tư đối với quỹ nhàn rỗi của BHXH Việt Nam hiện nay.
    -Cùng với việc mở rộng danh mục đầu tư, hạn mức đầu tư chúng ta có thể phân cấp quyết định đầu tư. Đối với các hạng mục đầu tư ít rủi ro để giám đốc BHXH Việt Nam quyết định, Chính phủ chỉ quyết định đối với các hình thức đầu tư khác nhiều rủi ro hơn. Như vậy BHXH sẽ chủ động và có trách nhiệm hơn trong công tác đâu tư của mình, Chính phủ thì không phải bận tâm đến những việc không thực sự cần thiết.
    -Nhà nước cũng cần có những biện pháp khuyến khích hoạt động đầu tư quỹ BHXH như chính sách miễn giảm thuế, ưu tiên trong những hạng mục đầu tư có lợi nhuận cao như lĩnh vực dầu khí, điện tử viễn thông, .
    -Bản thân BHXH cũng nên lập ra bộ phân chuyên trách thực hiện hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH, tránh tình trạng kiêm nhiệm không chuyên sâu vào lĩnh vực này. Có những cán bộ chuyên trách có trình độ và kinh nghiệm về đầu tư và phân tích tài chính, chúng ta mới có thể có hiệu quả cao trong đầu tư tăng trưởng quỹ.
    2.5. Giải pháp về quản lí cân đối quỹ.
    Hiện nay quỹ BHXH đang được quản lí tập chung thống nhất ở cơ quan cao nhất đó là BHXH Việt Nam. Quỹ BHXH được hoạch toán cuối năm theo hình thức cân đối thu chi, hiện nay quỹ BHXH đang trong giai đoạn đầu của quá trình thực hiện theo cơ chế PAYGO nên số dư quỹ hàng năm còn tương đối cao. Việc đẩy mạnh hoạt động thu, đặc biệt là thu từ đầu tư tăng trưởng quỹ và tiết kiệm chi là hợp lí. Theo các dự báo tài chính thì BHXH Việt Năm đến khoảng 40 năm nữa, thu của BHXH không đủ chi, quỹ BHXH sẽ bị thâm hụt. Trong những năm tới chúng ta nên có những biện pháp khắc phục tình trạng đó trong tương lai. Sau đây là một vài giải pháp đưa ra để khắc phục tình trạng trên:
    -Tăng thu BHXH: Đây là biện pháp dễ thực hiện song với mức thu phí BHXH như hiện nay đã là cao so với đồng lương chi trả cuộc sống của bản thân người lao động. Nếu thực hiện biện pháp này có lẽ là không phù hợp và chắc chắn người lao động và chủ sử dụng sẽ không đồng tình cho lắm.
    -Biện pháp thứ hai có thể áp dụng là giảm chi: Theo các nghiên cứu cho biết tỷ lệ hưởng của các chế độ đặc biệt là chế độ hưu chí hiện nay của Việt Nam là tương đối cao, thời gian hưởng trợ cấp thai sản dài so với các nước khác trên thế giới. Do vậy giảm tỉ lệ hưởng cũng có thể là một hướng giải quyết cần đưa ra để nghiên cứu và xem xét.
    -Hướng thứ ba là tăng thời gian đóng góp, tức là giảm tuổi nghỉ hưu đối với các đối tượng. Trong ba hướng trên thì đây có lẽ là hướng hợp lí nhất, tăng thời gian đóng đồng nghĩa với việc giảm thời gian hưởng. Như vậy vừa làm giảm chi lại vừa tăng thu. Xu thế này cũng phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh thế giới hiện nay. Thứ nhất là tình hình sức khoẻ của người lao động ngày càng tốt, tuổi thọ trung bình của người dân ngày càng tăng. Thứ hai là xu hướng thế giới hiện nay đang tăng độ tuổi về hưu của người lao động, đặc biệt là đối với lao động nữ.
    Việc quan trọng hiên nay là nếu thực hiện các biện pháp trên thì áp dụng và triển khai nó như thế nào? Nếu tăng tỉ lệ đóng góp, giảm tỉ lệ hưởng, tăng độ tuổi nghỉ hưu thì độ tuổi ấy là bao nhiêu? Sau đây tôi xin trình bầy phương pháp triển khai đối với hướng thứ ba, tức là tăng độ tuổi về hưu. Chúng ta nên áp dụng quy định tăng tuổi nghỉ hưu đối với các lao động bắt đầu tham gia lao động (và tham gia BHXH) từ ngày 1/1/2010. Như vậy 35 năm sau là lúc họ khoảng 60 tuổi là tuổi họ sẽ về hưu, khi đó họ sẽ tiếp tục đóng góp thêm một số năm nhất định tức là BHXH lức đó sẽ tăng thu từ khoản đóng góp thêm của họ và giảm chi đối với những khoản chi mà lẽ ra nếu về hưu sớm họ đã được nhận. Phương thức này có thể giải quyết được tình trạng thâm hụt quỹ BHXH trong 40 năm tới. Vấn đề thứ hai đặt ra độ tuổi tăng thêm bao nhiêu là hợp lí? Theo tôi trước tiên chúng ta nên tăng độ tuổi nghỉ hưu của nữ lên 58 và đối với nam là 63 (tức là tăng thêm ba năm) sau đó trong quá trình thực hiện chúng ta có thể tiếp tục điều chỉnh.
    Có những ý kiến cho răng quỹ BHXH nên thực hiện chi trả cho mọi đối tượng tại thời điểm này vị hiện nay số dư quỹ là rất lớn. NSNN chỉ đóng vai trò hỗ trợ bù thiếu chứ không phải chi trả cho các đối tượng nghỉ hưu trước 1995 như hiện nay. Đây cũng là ý kiến đóng góp cần được nghiên cứu và xem xét kĩ lại vì trong điều kiện như hiện này thì quỹ BHXH đang có số dư rất lớn. Hoạt động đầu tư quỹ chưa thực sự hiệu quả, điều kiện kinh tế không ổn định lạm phát cao dễ dẫn đến những thay đổi trong quy định mức hưởng. Như vậy sẽ gây ra gánh nặng lớn cho quỹ BHXH trong tương lai.
    3. Một số kiến nghị.
    3.1. Kiến nghị về phía Nhà nước.
    -Sớm hoàn thiện hành lang pháp lí cho việc thực hiện BHXH, tạo điều kiện cho BHXH được thực hiện rộng rãi, mở rộng đối tượng và tiến tới dần hoàn thiện các chế độ theo quy định của ILO. Cần thay đổi các quy định về các thủ tục hành chính sao cho thuận tiện cho cả người lao động và quá trình xét duyệt của cán bộ BHXH. Đề nghị Chính phủ mở rộng danh mục đầu tư, hạn mức đầu tư, mở rộng hoạt động đầu tư tăng trưởng để tăng thu cho quỹ BHXH Việt Nam. Bên cạnh đó Nhà nước cũng nên có các hình thức khuyến khích và ưu đãi cho hoạt động đầu tư của ngành, các chính sách ưu đãi về thuế.
    -Cần đưa ra những quy định sử phạt nghiêm khắc đối với những sai phạm của đối tượng trốn tham gia, trốn đóng hay nợ đọng. Có những biện pháp xử phạt nghiêm minh đối với các trường hợp vi phạm làm giả giấy tờ để hưởng các chế độ BHXH nhằm trục lợi cho bản thân.
    -Đưa ra những quy định phân rõ quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan quản lí Nhà nước, cơ quan quản lí sự nghiệp BHXH để phù hợp và tiện trong quá trình thực hiện các chế độ và các hoạt động khác.
    3.2. Kiến nghị về phía BHXH.
    -Xây dựng bộ máy quản lí với các cán bộ có năng lực và trình độ chuyên môn. Phân cấp chức năng quản lí theo các cấp cụ thể đối với mỗi đơn vị cấp quản lí. Tích cực thức hiện việc đào tạo và nâng cao năng lực cán bộ trong ngành, thường xuyên thực hiện việc đánh giá lại đội ngũ cán bộ, viên chức của nganh.
    -Cần đẩy mạnh công tác kiểm tra, kiểm soát kịp thời phát hiện những sai trái để có hình thức sử phạt hoặc báo cáo lên các ban ngành có liên quan. Bên cạnh đó cần có những hình thức kỉ luật nghiêm khắc đối với cán bộ của ngành có những sai phạm nghiêm trọng. Nên xây dựng phong trào thi đua, khen thưởng để kịp thời động viên các cán bộ có những thành tích trong công tác.
    -Đẩy mạnh công tác nghiên cứu cũng như trang bị các máy móc hiện đại giúp cho công việc vừa nhanh chóng vừa tiết kiệm được chi phí. Thực hiện công tác tuyên truyền sâu rộng trong quần chúng nhân dân. Nội dung tuyên truyền phải thể hiện được các chính sách mới, hình thức tuyên truyền phải sâu rộng và dễ hiểu, phù hợp với các loại đối tượng.
    -Cần phối hợp với các ban ngành chức năng có liên quan đến BHXH để kết hợp thực hiện công tác có hiệu quả. Đặc biệt với một số ban ngành sau: Liên đoàn lao động Việt Nam để đảm bảo quyền lợi tham gia BHXH của người lao động; Ngành thuế để phối hợp kiểm tra quỹ lương của doanh nghiệp cũng như sự tham gia BHXH cho người lao động của các doanh nghiệp đó; Hệ thống ngân hàng để truy thu BHXH từ tài khoản của các đơn vị có tài khoản tại các ngân hàng; Với các trường đại học trong vấn đề đào tạo cán bộ.
    -Xây dựng những báo cáo tài chính BHXH hàng năm và các dự toán tài chính trong những năm tiếp theo. Đồng thời phải dự tính được các thông số thông qua thống kê về số lượng, cơ cấu, độ tuổi, Từ đó phải dự toán được quá trình hưởng, khoản hưởng, mức hưởng, thời gian hưởng để triển khai thực hiện điều chỉnh các mức đóng góp, tỉ lệ hưởng cho từng giai đoạn sao cho phù hợp. Đây cũng là căn cứ để BHXH đề nghị thay đổi chính sách cho phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội trong thời gian tới.










     
Đang tải...